Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 69/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 69/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 61/2022/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 42/2022/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm: 1980 (có mặt).

Địa chỉ: Số 06, tổ 3, ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Bị đơn: Anh Trần Quốc C, sinh năm: 1979 (vắng mặt).

Địa chỉ: Số 06, tổ 3, ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình tố tụng nguyên đơn chị Nguyễn Thị D trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị D và anh Trần Quốc C tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2002, nhưng không đăng ký kết hôn. Đến ngày 07- 6-2021, mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phước Hưng, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện không bên nào ép buộc bên nào, được sự đồng ý của hai bên gia đình và tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình, quan điểm sống không hòa hợp, nhưng đã cố gắng nhường nhịn để cùng nhau lo cho con cái. Thời gian gần đây mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên chị D yêu cầu được ly hôn với anh C.

- Về con chung và cấp dưỡng: Có 03 con chung, chị D yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Trần Thanh T1, sinh ngày 24-02-211 và cháu Trần Thanh T2, sinh ngày 20-9-2020 đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi) và yêu cầu anh C cấp dưỡng mỗi con 2.000.000đ/tháng. Đối với cháu Trần Thanh P, sinh ngày 24-5-2003, đã trưởng thành nên không yêu cầu gì. Tuy nhiên, trong qúa trình tố tụng chị D rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu anh C cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Trần Quốc C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng vắng mặt không có lý do và không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Theo Đơn xác nhận ngày 22-3-2022 do chị D giao nộp và Biên bản xác minh ngày 25-3-2022 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, thì anh C hiện đang cư trú tại số nhà 06, tổ 3, ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Anh C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vắng mặt không có lý do; chị D rút một yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu anh C cấp dưỡng. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và không cung cấp tài liệu, chứng cứ mới.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa:

Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại các điều 28, 35, 39, 68, 171, 179, 205, 208, 209, 210 và 211 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định tại các điều 225, 237 và 239 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị D đối với anh C. Giao cháu T1 và cháu T2 cho chị D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và anh C không phải cấp dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Theo đơn khởi kiện, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa chị D yêu cầu Tòa án giải quyết về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con đối với anh C được xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, chị D rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu anh C cấp dưỡng là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu này, quy định tại khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy:

[4.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh C tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Phước Hưng huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận kết hôn là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Theo chị D thời gian đầu vợ chồng chung sống khá hạnh phúc, nhưng gần đây thì liên tục phát sinh mâu thuẫn, không giải quyết được, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị D xin được ly hôn với anh C. Qúa trình tố tụng anh C đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và triệu tập nhiều lần để làm rõ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng cố tình vắng mặt không có lý do và không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Theo kết quả xác minh quá trình chung sống của vợ chồng có mâu thuẫn gì hay không thì địa phương không nắm rõ. Chị D cho rằng mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được trong khi đó anh C cố tình vắng mặt, không có thiện chí hòa giải. Vì vậy, chị D yêu cầu ly hôn là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4.2] Về con chung và cấp dưỡng: Cháu T1 có nguyện vọng được ở với mẹ, cháu T2 dưới 36 tháng tuổi và chị D yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, để tránh làm tổn thương cho các cháu nên giao cho chị D là phù hợp. Việc chị D không yêu cầu anh C cấp dưỡng là hoàn toàn tự nguyện nên ghi nhận. Đối với cháu P đã trưởng thành, phát triển bình thường và không có yêu cầu gì nên không xem xét, giải quyết.

[4.3] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên không giải quyết.

[5] Về án phí sơ thẩm: Chị D phải nộp 300.000đ án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm không có giá ngạch theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28, 35, 39, 228, 244, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 19, 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đìnhNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị D về việc yêu cầu anh Trần Quốc C cấp dưỡng.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị D về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với anh Trần Quốc C.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị D được ly hôn với anh Trần Quốc C.

- Về con chung và cấp dưỡng: Giao cháu Trần Thanh T1, sinh ngày 24-02- 2011 và cháu Trần Thanh T, sinh ngày 20-9-2020 cho chị Nguyễn Thị D trực tếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi) và anh Trần Quốc C không phải cấp dưỡng.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con, nếu họ lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

3. Án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị D phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm không có giá ngạch, được trừ vào 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008737 ngày 14 tháng 02 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

4. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt, thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 69/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:69/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:22/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về