TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 68/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/12/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Trong ngày 31 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 146/2021/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2021/QĐXXST – HNGĐ ngày 26 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: chị Đồng Thị B, sinh năm 1982; Vắng mặt có đơn xin.
- Bị đơn: anh Trần Tấn C, sinh năm 1982; Vắng mặt không lý do.
Cùng địa chỉ: khu phố LK, phường GL thị xã TB, tỉnh T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Đồng Thị B trình bày: Chị và anh C chung sống từ năm 1999, có tổ chức lễ cưới. Chị và anh C có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Gia Lộc, thị xã Trảng Bàng vào ngày 30-11-2004. Sau khi kết hôn, vợ chồng cất nhà ra riêng tại khu phố G, phường GL thị xã TB, tỉnh T. Đến năm 2018, vợ chồng cất nhà trên đất của cha mẹ chị cho tại khu phố LK, phường GL thị xã TB, tỉnh T. Vợ chồng chung sống với nhau đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh C không chăm lo cho gia đình mà còn quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Cha mẹ có hòa giải cho chị và anh C nhưng không thành. Do mâu thuẫn quá lớn nên anh C dọn ra ngoài sống từ đầu năm 2020 đến nay, thỉnh thoảng anh C có về thăm con. Nay chị yêu cầu được ly hôn với anh C.
Về con chung: Vợ chồng 02 con chung tên Trần Đồng Thành A, sinh ngày 07-10-2000 và Trần Đồng Gia E, sinh ngày 10-4-2006, hiện nay cháu A đã trưởng thành, có công việc ổn định, cháu E đang sống cùng chị. Sau khi ly hôn, cháu A đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, chị xin được tiếp tục nuôi dưỡng cháu E và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra không còn yêu cầu gì khác.
Bị đơn anh Trần Tấn C đã được Tòa án: Tống đạt thông báo thụ lý, triệu tập hợp lệ để lấy lời khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng anh C đều vắng mặt không có lý do và không nộp văn bản ý kiến cho Tòa án.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng:
1. Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền. Thẩm phán chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự và Thư ký phiên tòa thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn. Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2. Việc giải quyết vụ án:
Căn cứ vào Điều 56, 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:
- Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị B đối với anh C.
- Về con chung: Giao cháu Trần Đồng Gia E, sinh ngày 10-4-2006 cho chị B được quyền tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ghi nhận chị B không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: nguyên đơn chị B vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn anh C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng anh C vẫn cố tình vắng mặt, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị B, anh C là phù hợp với quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về hôn nhân: chị B và anh C chung sống với nhau vào năm 1999, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Gia Lộc vào ngày 30-11-2004. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do mâu thuẫn về kinh tế và do vợ chồng không tin tưởng lẫn nhau về mặt tình cảm, dẫn đến thường xuyên cãi vã nhau. Hai người đã sống ly thân từ đầu năm 2020 đó đến nay, không ai có thiện chí hàn gắn. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh C đến làm việc nhưng anh C đều vắng mặt không lý do, không cung cấp lời khai, không tham gia phiên hòa giải thể hiện anh C không có thiện chí đoàn tụ. Từ đây cho thấy mâu thuẫn vợ chồng của anh chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nay chị B yêu cầu ly hôn với anh C, nhận thấy có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về con chung: Cháu Trần Đồng Thành A, sinh ngày 07-10-2000 đã trưởng thành, có công việc ổn định nên không đặt ra giải quyết. Cháu Trần Đồng Gia E, sinh ngày 10-4-2006 đang sống cùng với chị B. Xét thấy hiện nay cháu E đang sống với chị B, qua làm việc cháu E có nguyện vọng được sống cùng mẹ. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy cần giao chị B tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu E là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con do chị B không yêu cầu.
[4] Về tài sản, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết.
[5] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng là phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Án phí: Chị B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 56, 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn của chị Đồng Thị B đối với anh Trần Tấn C. Chị Đồng Thị B được ly hôn với anh Trần Tấn C.
2. Về con chung: Cháu Trần Đồng Thành A, sinh ngày 07-10-2000 đã trưởng thành nên không đặt ra giải quyết. Giao cháu Trần Đồng Gia E, sinh ngày 10-4-2006 cho chị B được quyền tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ghi nhận chị B không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.
Anh C được quyền thăm nôm, chăm sóc con chung mà không ai được quyền cản trở.
3. Về tài sản và nợ chung: Không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí: Chị B phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm mà chị B đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015258 ngày 05-4-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Trảng Bàng. Chị B đã nộp đủ án phí.
5. Quyền kháng cáo: Chị B, anh C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 68/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 68/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về