Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 68/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 68/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 48/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2021 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 127/2021/QĐST- HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị L.T.V.P, sinh năm 1998;

Địa chỉ: Ấp M, xã MĐ, huyện CP, tỉnh An Giang.

Nơi ở hiện nay: Số , ấp B, xã BC, huyện CP, tỉnh An Giang. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Bị đơn: Anh H.V.Tr, sinh năm 1998.

Địa chỉ: Ấp H, xã P, huyện TS, tỉnh An Giang. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 19/02/2021 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị L.T.V.P trình bày như sau: Chị và anh H.V.Tr do tự tìm hiểu và tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2017, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn ngày 26/6/2018.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Tr không lo làm ăn, không quan tâm đến gia đình và còn có quan hệ với người phụ nữ khác bên ngoài. Vợ chồng anh chị sống ly thân từ đầu năm 2020 đến nay. Thời gian qua chị nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Tr.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung tên H.Q.K, sinh ngày 30/11/2018, hiện nay đang sống chung với chị P. Nếu ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh Tr cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Do hiện nay tình hình dịch Covid – 19 đang diễn biến phức tạp ở nơi chị P đang làm nên việc đi lại khó khăn. Vì vậy, chị P có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa khi vụ án được đưa ra xét xử.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã hai lần triệu tập hợp lệ anh Tr đến để tiến hành hòa giải nhưng anh Tr vắng mặt không có lý do và không có lời khai hay ý kiến nên Tòa án không ghi nhận được quá trình hôn nhân, con cái, tài sản cũng như ý kiến của anh Tr đối với yêu cầu khởi kiện của chị P.

* Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa; Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 227 khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 8, 9, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xem xét, quyết định. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị P được ly hôn anh Tr. Về con chung: Giao cháu H.Q.K, sinh ngày 30/11/2018 cho chị P được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, anh Tr không cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung: Không xem xét. Chị P yêu cầu ly hôn nên phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Chị L.T.V.P (là nguyên đơn trong vụ án) có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị P theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh H.V.Tr (là bị đơn trong vụ án) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên Toà xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Tr.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Chị P và anh Tr kết hôn với nhau vào năm 2017, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn ngày 26/6/2018 nên được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Nay vợ chồng chị P và anh Tr phát sinh mâu thuẫn, chị P xin ly hôn nên Toà án thụ lý, giải quyết là phù hợp với các quy định của pháp luật.

Trong quá trình hôn nhân, chị P cho rằng do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Tr không lo làm ăn, không quan tâm đến gia đình và còn có quan hệ với người phụ nữ khác bên ngoài. Thời gian ly thân, anh Tr không còn tới lui, thăm nom, chăm sóc chị cũng như không có biện pháp để hàn gắn hạnh phúc. Tòa án đã triệu tập anh Tr để tham gia phiên hòa giải nhưng anh Tr cố tình vắng mặt và không trình bày ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị P thể hiện anh Tr không muốn hàn gắn. Vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ đầu năm 2020 cho đến nay. Xét thấy, hôn nhân giữa chị P và anh Tr thực tế đã không còn tồn tại, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị P được ly hôn với anh Tr.

[2.2] Về con chung:

Chị P xác định trong thời gian chung sống, vợ chồng anh chị có 01 con chung tên H.Q.K, sinh ngày 30/11/2018, hiện nay đang sinh sống với chị P. Sau ly hôn, chị P yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh Tr phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu K hiện nay chưa đủ 36 tháng tuổi, đang sống với chị P, thời gian ly thân cháu K được chị P chăm sóc tốt, phát triển bình thường. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của cháu K, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu K, giúp cháu phát triển tốt về thể chất, tinh thần, Hội đồng xét xử giao cháu K cho chị P được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con, tuy nhiên chị P không yêu cầu anh Tr phải cấp dưỡng nuôi con chung nên HĐXX không xem xét.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở. Chị P phải tạo điều kiện cho anh Tr được thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

[2.3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chị P không tranh chấp tài sản chung và nợ chung nên HĐXX không xem xét. Nếu sau này giữa chị P và anh Tr có phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ được Tòa án thụ lý, giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Lời phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về nội dung giải quyết vụ án là phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Chị P phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí chị P đã nộp.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 227, 228, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Các Điều 8, 9, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L.T.V.P.

* Về hôn nhân: Chị L.T.V.P được ly hôn với anh H.V.Tr.

(Giấy chứng nhận kết hôn số 52 do Ủy ban nhân dân xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang cấp ngày 26/6/2018 cấp cho chị L.T.V.P và anh H.V.Tr không còn giá trị pháp lý kể từ ngày 24/6/2021).

* Về con chung: Giao cháu H.Q.K, sinh ngày 30/11/2018 cho chị P được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng.

Anh Tr không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị P không có yêu cầu.

Anh Tr có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, Toà án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

* Về tài sản chung và nợ chung: Chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét. Nếu sau này giữa chị P và anh Tr có phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ được Tòa án thụ lý, giải quyết bằng vụ án khác.

* Về án phí sơ thẩm: Chị L.T.V.P phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000 đồng, nhưng được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008131 ngày 01 tháng 3 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

Anh H.V.Tr không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Chị P và anh Tr được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 68/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:68/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về