Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 67/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 67/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử công khai vụ án thụ lý số 25/2022/TLST - HNGĐ ngày 14 tháng 02 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2022/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Ng; nơi cư trú: Thôn Việt Tiến 1, xã Đại H, huyện Kiến Th, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Bùi Văn T; nơi ĐKHKTT: Thôn Việt Tiến 1, xã Đại H, huyện Kiến Th, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Đất nước Đài Loan. Vắng mặt không có lý do.

bày:

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai gửi Tòa án, nguyên đơn chị Đỗ Thị Ng trình Chị Ng và anh Bùi Văn T tự nguyện chung sống với nhau từ đầu năm 2008, được hai bên gia đình đồng ý tổ chức hỏi cưới theo phong tục truyền thống Việt Nam nhưng đến ngày 20/6/2008 mới làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, lối sống, mất niềm tin về tình cảm và kinh tế nên cãi vã, xúc phạm nhau. Trước đây chị và anh T có sang Đài Loan để lao động nhưng từ tháng 7 năm 2019 chị Ng về Việt Nam, chỉ còn anh T ở lại làm việc. Do anh T thuê nhà trọ, thường xuyên thay đổi chỗ ở nên chị không thể cung cấp được địa chỉ của anh ở Đài Loan, mặt khác, hiện nay anh T không còn liên lạc với chị nên chị không thể cung cấp cho Tòa án địa chỉ của anh T. Địa chỉ cuối cùng anh T ở Việt Nam trước khi đi là: Thôn Việt Tiến 1, xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh Bùi Văn T.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung: Bùi Phương Th, sinh ngày 21/11/2008 và Bùi Khải Ng1, sinh ngày 09/8/2013. Ly hôn, chị đề nghị Tòa án giao cả 02 con cho chị được trực tiếp nuôi vì hiện nay các con đang ở cùng với chị. Về cấp dưỡng nuôi con, chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Đỗ Thị Ng không đề nghị Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn là anh Bùi Văn T: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã thông báo cho gia đình anh T cung cấp địa chỉ của anh ở Đài Loan và yêu cầu gia đình anh cho biết kết quả đã thông báo cho anh T biết để gửi lời khai và cung cấp tài liệu, chứng cứ về Tòa án. Tuy nhiên, gia đình anh T không thực hiện yêu cầu trên của Tòa án. Tòa án đã ghi lời khai của mẹ đẻ anh T, thể hiện: Anh Bùi Văn T vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình qua mạng internet nhưng gia đình không biết địa chỉ cụ thể của anh ở Đài Loan. Anh T đã được gia đình thông báo về việc chị Ng có đơn ly hôn với anh, đồng ý với quan điểm của chị Ng. Quan điểm của gia đình bị đơn thể hiện mâu thuẫn vợ chồng chị Ng và anh T đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn là anh Bùi Văn T vắng mặt tại phiên tòa không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Chị Đỗ Thị Ng và anh Bùi Văn T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đỗ Thị Ng. Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao 02 con chung cho chị Ng trực tiếp nuôi dưỡng và không xem xét yêu cầu cấp dưỡng. Về tài sản chung: Chị Ng không đề nghị Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền: Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, nuôi con. Bị đơn anh Bùi Văn T hiện đang ở Đài Loan, nguyên đơn là chị Đỗ Thị Ng có nơi cư trú tại Hải Phòng, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai, chị Đỗ Thị Ng vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Anh Bùi Văn T vắng mặt mặc dù đã được tống đạt, thông báo hợp lệ. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị Ng và anh Bùi Văn T tự nguyện chung sống với nhau từ đầu năm 2008, được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục nhưng đến ngày 20/6/2008 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được khoảng 10 năm, nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn, hiện nay anh T vẫn ở lại Đài Loan làm việc, vợ chồng xa cách và không còn quan tâm đến nhau nữa, mặc dù đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không thành. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên xử cho chị Đỗ Thị Ng và anh Bùi Văn T được ly hôn là phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về con chung: Chị Đỗ Thị Ng và anh Bùi Văn T có 02 con chung là Bùi Phương Th, sinh ngày 21/11/2008 và Bùi Khải Ng1, sinh ngày 09/8/2013. Ly hôn, chị Ng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cả hai con, đồng thời các con cũng có nguyện vọng được sinh sống cùng mẹ nên xét thấy nguyện vọng của chị Ng là chính đáng, Hội đồng xét xử chấp nhận giao 02 con chung cho chị Ng nuôi. Về cấp dưỡng nuôi con chung, ghi nhận sự tự nguyện của chị Ng tạm thời không yêu cầu cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Chị Ng không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đỗ Thị Ng là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị Đỗ Thị Ng và anh Bùi Văn T được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2, khoản 4 Điều 207; khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 266; Điều 273; điểm d khoản 1 Điều 469; khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82; Điều 83; Điều 127 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị Ng.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị Ng được ly hôn anh Bùi Văn T.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Bùi Phương Th, sinh ngày 21/11/2008 và Bùi Khải Ng1, sinh ngày 09/8/2013 cho chị Đỗ Thị Ng trực tiếp nuôi dưỡng. Việc nuôi con của chị Ng được thực hiện cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Ng tạm thời không yêu cầu anh T cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị Ng tự thỏa thuận với anh T, không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đỗ Thị Ng phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm; nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai ký hiệu: AA/2021 số 0000298 ngày 14 tháng 02 năm 2022 của Cục Thi hành án Dân sự thành phố Hải Phòng; chị Đỗ Thị Ng đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Đỗ Thị Ng (vắng mặt) tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Anh Bùi Văn T (vắng mặt) tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 67/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:67/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về