TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 64/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 23 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 123/2022/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 6 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 138/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 85/2022/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trương Thị Kim D, sinh ngày 07 tháng 6 năm 1990 (vắng mặt);
Địa chỉ: Sn 163/1 ấp BT 1, xã PNT, huyện CT tỉnh Long An;
2. Bị đơn: Anh Phạm Thanh T, sinh ngày 05 tháng 01 năm 1992 (vắng mặt);
Địa chỉ: Kp5, thị trấn TB, huyện AB, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong đơn khởi kiện ngày 06/5/2020, đơn xin xét xử vắng mặt ngày 01/8/2022 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Trương Thị Kim D trình bày và yêu cầu như sau:
Chị và anh Phạm Thanh T chung sống với nhau vào năm 2018, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã PNT, huyện CT, tỉnh Long An cấp ngày 19/01/2018. Chị và anh Phạm Thanh T có 01 người con chung tên: Phạm Ngọc TA, sinh ngày 27 tháng 10 năm 2018, hiện nay đang sống chung với chị; về tài sản chung, chị và anh Phạm Thanh T không có và không tranh chấp; về nợ, chị và anh Phạm Thanh T không có nợ người khác, người khác không nợ anh chị. Quá trình chung sống chị và anh Phạm Thanh T sống không hòa hợp, không lo làm ăn kinh tế, anh Phạm Thanh T thường xuyên cự cãi và gia đình động viên hàn gắn nhưng không có kết quả nên anh Phạm Thanh T bỏ đi sống ly thân với chị từ tháng 5 năm 2020 cho đến nay, không có liên lạc gì với nhau. Chị thấy, chị và anh Phạm Thanh T không còn tình cảm vợ chồng nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết như sau: Về quan hệ hôn nhân, chị yêu cầu được ly hôn với anh Phạm Thanh T. Về quan hệ con chung, khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng người con chung tên Phạm Ngọc TA, sinh ngày 27 tháng 10 năm 2018, không yêu cầu anh Phạm Thanh T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ, không có nên chị không yêu cầu giải quyết.
* Tại các Biên bản xác minh ngày 29 tháng 6 năm 2022 và ngày 29 tháng 7 năm 2022, về nguyên nhân mâu thuẫn và tình trạng hôn nhân:
Anh Phạm Thanh T và chị Trương Thị Kim D chung sống với nhau một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn không rõ. Thời gia anh chị chung sống có 01 người con chung tên Phạm Ngọc TA hiện đang sống với chị Trương Thị Kim D, anh Phạm Thanh T thường xuyên đi làm ăn và về địa phương tại Kp5, thị trấn TB, huyện AB, tỉnh Kiên Giang.
* Bị đơn anh Phạm Thanh T: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho anh Phạm Thanh T nhưng anh không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì đối với yêu cầu khởi kiện ly hôn và nuôi con của chị Trương Thị Kim D nên Toà án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
* Tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án gồm: Giấy chứng minh nhân dân Trương Thị Kim D và sổ hộ khẩu; Giấy khai sinh Phạm Ngọc TA; Giấy chứng nhận kết hôn Trương Thị Kim D và Phạm Thanh T, cấp ngày 19/01/2018 của Ủy ban nhân dân xã PNT, huyện CT tỉnh Long An; các Biên bản xác minh ngày 29/6/2022 và ngày 29/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện An Biên.
* Tại phiên tòa:
Nguyên đơn chị Trương Thị Kim D gửi đơn xin xét xử vắng mặt.
Bị đơn anh Phạm Thanh T vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án thực hiện các thủ tục tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, xác định mối quan hệ pháp luật, đưa tư cách đương sự tham gia tố tụng, về thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh, tống đạt các văn bản tố tụng và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát đúng trình tự thủ tục và thời gian quy định tại khoản 1 Điều 35, Điều 48, Điều 51, Điều 68, các Điều 208, 209, 210, 211, 239 và Điều 247 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Pháp luật tố tụng dân sự, có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do, đề nghị xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại Điều 228, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Xét đơn khởi kiện của chị Trương Thị Kim D yêu cầu được ly hôn với anh Phạm Thanh T và nuôi dưỡng con chung là có căn cứ chấp nhận nên đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Trương Thị Kim D được ly hôn với anh Phạm Thanh T. Về quan hệ con chung, khi ly hôn giao người con chung của anh chị cho chị Trương Thị Kim D được tiếp tục nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung và nợ anh chị không yêu cầu giải quyết đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Trương Thị Kim D yêu cầu được ly hôn với bị đơn anh Phạm Thanh T và tranh chấp về nuôi con. Bị đơn Phạm Thanh T cư trú tại: Kp5, thị trấn TB, huyện AB, tỉnh Kiên Giang nên xác định đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Phạm Thanh T biết và ấn định thời gian để anh có ý kiến về việc chị Trương Thị Kim D khởi kiện ly hôn, tranh chấp về nuôi con đối với anh nhưng anh không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Toà án tổ chức và thông báo cho các bên đương sự để tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh Phạm Thanh T vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Như vậy, đây là thuộc trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung và tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho chị Trương Thị Kim D và anh Phạm Thanh T thì chị Trương Thị Kim D gửi đơn xin xét xử vắng mặt, anh Phạm Thanh T vẫn cố tình vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị Trương Thị Kim D và anh Phạm Thanh T theo quy định tại khoản 1 Điều 228, khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238 và Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung: Xét về quan hệ hôn nhân, chị Trương Thị Kim D và anh Phạm Thanh T chung sống với nhau vào năm 2018, có đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân xã PNT, huyện CT, tỉnh Long An là một trong những nơi cư trú của anh chị) và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 03/2018 ngày 19 tháng 01 năm 2018, anh chị đảm bảo các điều kiện kết hôn khác theo quy định của pháp luật là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.
Xét khởi kiện của chị Trương Thị Kim D được ly hôn với anh Phạm Thanh T, thời gian anh chị chung sống hạnh phúc được vài năm thì chị và anh Phạm Thanh T sống không hòa hợp, không lo làm ăn kinh tế, anh Phạm Thanh T thường xuyên cự cãi với chị, được gia đình động viên hàn gắn nhưng không có kết quả, anh Phạm Thanh T bỏ đi sống ly thân với chị từ tháng 5 năm 2020 cho đến nay, không có liên lạc gì với nhau. Chị thấy, chị và anh Phạm Thanh T không còn tình cảm vợ chồng nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Phạm Thanh T nhưng anh Phạm Thanh T không có ý kiến yêu cầu gì, không quan tâm đến việc chị Trương Thị Kim D ly hôn với anh là vi phạm nghĩa vụ giữa vợ chồng thời gian dài, vợ chồng không chăm sóc, lo lắng lẫn nhau mà anh chị không có biện pháp hàn gắn để chung sống với nhau nên hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay chị Trương Thị Kim D cương quyết ly hôn với anh Phạm Thanh T. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị Kiểm sát viên và yêu cầu khởi kiện của chị Trương Thị Kim D, cho chị Trương Thị Kim D được ly hôn với anh Phạm Thanh T là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
Về quan hệ con chung, chị Trương Thị Kim D và anh Phạm Thanh T có 01 người con chung tên: Phạm Ngọc TA, sinh ngày 27 tháng 10 năm 2018 hiện nay đang sống chung với chị Trương Thị Kim D. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, anh Phạm Thanh T không có ý kiến yêu cầu gì, con chung của anh chị từ khi anh chị ly thân đến nay sống chung với chị Trương Thị Kim D đã thích nghi với cuộc sống hiện tại. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, yêu cầu của chị Trương Thị Kim D, giao người con chung của anh chị tên: Phạm Ngọc TA, sinh ngày 27 tháng 10 năm 2018 cho chị Trương Thị Kim D tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.
Về cấp dưỡng nuôi con, chị Trương Thị Kim D không yêu cầu anh Phạm Thanh T cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.
Về tài sản chung và nợ, chị Trương Thị Kim D tự xác định, anh chị không có tài sản chung, không có tranh chấp, chị Trương Thị Kim D cam kết chị và anh Phạm Thanh T không có nợ người khác, người khác không có nợ anh chị, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có phát sinh chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.
[4] Về án phí, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu nhưng được trừ vào số tiền đã tạm ứng án phí theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 207, khoản 1 Điều 228, khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238, Điều 241, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 9, khoản 1 Điều 51, Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTV QH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Trương Thị Kim D được ly hôn với anh Phạm Thanh T.
2. Về quan hệ con chung: Giao người con chung của anh chị tên: Phạm Ngọc TA, sinh ngày 27 tháng 10 năm 2018 cho chị Trương Thị Kim D tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được và hiện nay đang sống chung với chị Trương Thị Kim D.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.
3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trương Thị Kim D không yêu cầu anh Phạm Thanh T cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.
4. Về tài sản chung và nợ: Chị Trương Thị Kim D tự xác định, anh chị không có tài sản chung, không có tranh chấp, chị Trương Thị Kim D cam kết chị và anh Phạm Thanh T không có nợ người khác, người khác không có nợ anh chị, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có phát sinh chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.
5. Về án phí: Buộc chị Trương Thị Kim D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0004862 ngày 29 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Chị Trương Thị Kim D đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 23/9/2022. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 64/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 64/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về