Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 64/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 64/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 08 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 35/2022/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 95/2022/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H. T., sinh năm 1992; (vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Số 125 ấp T.T., xã V. H., thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: Ông Nguyễn B.N., sinh năm 1993; (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp H. T., xã N. T., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện về việc ly hôn ngày 08 tháng 02 năm 2022 nguyên đơn bà Nguyễn Thị H. T. trình bày:

Bà Nguyễn Thị H. T. và ông Nguyễn B.N. có tổ chức đám cưới vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hiệp, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng vào ngày 11/7/2017. Sau khi kết hôn, bà Thu và ông Nghị chung sống cùng nhau được 06 năm tại địa chỉ số 125 ấp Tân Tỉnh, xã Vĩnh Hiệp, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Đến tháng 6/2021 thì phát sinh mâu thuẫn dẫn đến đời sống chung không thể hòa hợp, hôn nhân không hạnh phúc. Từ tháng 6/2021, bà Thu và ông Nghị đã sống ly thân, bà Thu sống tại địa chỉ số 125 ấp Tân Tỉnh, xã Vĩnh Hiệp, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng còn ông Nghị về sống tại ấp Hòa Tần, xã Ngọc Tố, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Nay bà Nguyễn Thị H. T. yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn B.N..

- Về con chung: Thời gian chung sống, bà Nguyễn Thị H. T. và ông Nguyễn B.N. có một người con chung tên Nguyễn Mạnh T., sinh ngày 21/10/2017. Hiện nay cháu đang sống chung với bà Thu. Bà Nguyễn Thị H. T. yêu cầu được nuôi con chung tên Nguyễn Mạnh T., sinh ngày 21/10/2017 đến khi cháu đủ 18 tuổi, không yêu cầu ông Nghị Cấp dưỡng.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn ông Nguyễn B.N.: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử theo đúng trình tự thủ tục tố tụng dân sự nhưng ông Nguyễn B.N. vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, cũng không nộp văn bản thể hiện ý kiến cho Tòa án. Do đó, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo trình tự quy định của pháp luật.

- Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình thụ lý, xét xử vụ án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Còn bị đơn chưa chấp hành đúng quy định pháp luật do vắng mặt không có lý do tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải.

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị H. T. và bị đơn ông Nguyễn B.N. đã được cấp tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự để tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng bị đơn ông Nguyễn B.N. vắng mặt không có lý do nên đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông Nguyễn B.N..

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên xử bà Nguyễn Thị H. T. được ly hôn với ông Nguyễn B.N.. Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung Nguyễn Mạnh T., sinh ngày 21/10/2017 cho bà Nguyễn Thị H. T. tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng: Bà Nguyễn Thị H. T. không yêu cầu ông Nguyễn B.N. cấp dưỡng nuôi con chung nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị H. T. và ông Nguyễn B.N. đã được Toà án triệu tập hợp lệ tham gia phiên toà xét xử đến lần thứ hai nhưng bị đơn ông Nguyễn B.N. vẫn vắng mặt, không có lý do, bà Nguyễn Thị H. T. có đơn xin xét xử vắng mặt . Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyễn B.N. và bà Nguyễn Thị H. T..

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H. T. và ông Nguyễn B.N. tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn theo quy định tại Uỷ ban nhân dân xã Vĩnh Hiệp, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng vào ngày 11/7/2017, được Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hiệp cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 41 ngày 11/7/2017 nên quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị H. T. và ông Nguyễn B.N. là hôn nhân hợp pháp.

Theo đơn khởi kiện bà Nguyễn Thị H. T. yêu cầu ly hôn do từ tháng 6 năm 2021 vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên bất đồng ý kiến, trong cuộc sống vợ chồng thường hay cãi vã với nhau nên không còn hạnh phúc. Từ tháng 6 năm 2021, bà Thu và ông Nghị đã sống ly thân, ông Nghị đã về sống tại địa chỉ Hòa Tần, xã Ngọc Tố, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng còn bà Thu sống tại địa chỉ số 125 ấp Tân Tỉnh, xã Vĩnh Hiệp, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng cho đến nay. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà Nguyễn Thị H. T. và ông Nguyễn B.N. đến nay đã không thể giải quyết được, cho thấy cuộc sống hôn nhân của bà Nguyễn Thị H. T. và ông Nguyễn B.N. đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị H. T..

[3] Về con chung: Bà Nguyễn Thị H. T. và ông Nguyễn B.N. có một con chung tên Nguyễn Mạnh T., sinh ngày 21/10/2017 hiện nay đang ở với bà Thu và bà Thu có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung Nguyễn Mạnh T.. Hội đồng xét xử xét thấy nhằm để ổn định cuộc sống hiện tại và không làm ảnh hưởng đến tâm lý của con chung, để con chung được phát triển tốt về thể chất và tinh thần thì cần thiết giao cho bà Nguyễn Thị H. T. được quyền tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Mạnh T., sinh ngày 21/10/2017 cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Ông Nguyễn B.N. được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

[4] Về tài sản chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về nợ chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị H. T. phải chịu án phí hôn nhân và gia đình theo quy định. Bị đơn ông Nguyễn B.N. không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H. T. đối với ông Nguyễn B.N..

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H. T. được ly hôn với ông Nguyễn B.N..

- Về con chung: Giao cho bà Nguyễn Thị H. T. được quyền tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Mạnh T., sinh ngày 21/10/2017 cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Ông Nguyễn B.N. được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

- Về cấp dưỡng: Bà Nguyễn Thị H. T. không yêu cầu ông Nguyễn B.N. cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Về nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị H. T. phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí ông đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0009858 ngày 14/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên. Bà Nguyễn Thị H. T. đã nộp xong.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên toà hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

4. Về việc thi hành án: Trong trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 64/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:64/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về