Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 63/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 63/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 08 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 11/2022/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 94/2022/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị D., sinh năm 1994; (có mặt).

Địa chỉ: Ấp H. Nh.A, xã H. T. 2, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: Ông Hồ Thanh Kh., sinh năm 1994; (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp M. D., xã H. T. 2, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện về việc ly hôn ngày 16 tháng 11 năm 2021 và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Trần Thị D. trình bày:

Bà Trần Thị D. và ông Hồ Thanh Kh. xây dựng hôn nhân vào năm 2015 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa Tú 2, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng; đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 65 ngày 15/5/2017. Trong thời gian sống chung, bà Trần Thị D. và ông Hồ Thanh Kh. có hai người con chung là cháu Hồ Trần Ch. Ng., sinh ngày 08/8/2016 và cháu Hồ Trần Th. N., sinh ngày 27/5/2019. Hiện đang sống chung với bà Trần Thị D.. Trong thời gian chung sống giữa bà Trần Thị D. và ông Hồ Thanh Kh. phát sinh nhiều mâu thuẫn nên bà Trần Thị D. yêu cầu được ly hôn với ông Hồ Thanh Kh..

- Về con chung: Bà Trần Thị D. yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung là cháu Hồ Trần Ch. Ng., sinh ngày 08/8/2016 và cháu Hồ Trần Th. N., sinh ngày 27/5/2019 đến khi các cháu đủ 18 tuổi, và không yêu cầu ông Hồ Thanh Kh. cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn ông Hồ Thanh Kh.: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử theo đúng trình tự thủ tục tố tụng dân sự nhưng ông Hồ Thanh Kh. vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, cũng không nộp văn bản thể hiện ý kiến cho Tòa án. Do đó, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo trình tự quy định của pháp luật.

- Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình thụ lý, xét xử vụ án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Còn bị đơn chưa chấp hành đúng quy định pháp luật do vắng mặt không có lý do tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải.

Nguyên đơn bà Trần Thị D. và bị đơn ông Hồ Thanh Kh. đã được cấp tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự để tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng bị đơn ông Hồ Thanh Kh. vắng mặt không có lý do nên đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông Hồ Thanh Kh..

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên xử bà Trần Thị D. được ly hôn với ông Hồ Thanh Kh.. Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao hai con chung Hồ Trần Ch. Ng., sinh ngày 08/8/2016 và cháu Hồ Trần Th. N., sinh ngày 27/5/2019 cho bà Trần Thị D. tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng: Bà Trần Thị D. không yêu cầu ông Hồ Thanh Kh. cấp dưỡng nuôi con chung nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Trần Thị D. và ông Hồ Thanh Kh. đã được Toà án triệu tập hợp lệ tham gia phiên toà xét xử đến lần thứ hai nhưng bị đơn ông Hồ Thanh Kh. vẫn vắng mặt, không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt ông Hồ Thanh Kh..

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị D. và ông Hồ Thanh Kh. tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn theo quy định tại Uỷ ban nhân dân xã Hòa Tú 2, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng vào ngày 06/6/2020, được Ủy ban nhân dân xã Hòa Tú 2 cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 65 ngày 15/5/2017 nên quan hệ hôn nhân giữa bà Trần Thị D. và ông Hồ Thanh Kh. là hôn nhân hợp pháp.

Theo đơn khởi kiện bà Trần Thị D. yêu cầu ly hôn do từ năm 2019 vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên bất đồng ý kiến và đã ly thân từ năm 2020 đến nay không liên lạc với nhau. Tại phiên toà, bà Trần Thị D. xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trở nên trầm trọng, bà Trần Thị D. không còn tình cảm gì với ông Hồ Thanh Kh., cuộc sống vợ chồng không thể kéo dài, hôn nhân không có hạnh phúc và cương quyết yêu cầu được ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà Trần Thị D. và ông Hồ Thanh Kh. đến nay đã không thể giải quyết được, cho thấy cuộc sống hôn nhân của bà Trần Thị D. và ông Hồ Thanh Kh. đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Trần Thị D..

[3] Về con chung: Bà Trần Thị D. và ông Hồ Thanh Kh. có hai con chung Hồ Trần Ch. Ng., sinh ngày 08/8/2016 và cháu Hồ Trần Th. N., sinh ngày 27/5/2019, hiện nay đang ở với bà Diễm và bà Diễm có nguyện vọng nuôi dưỡng cả hai con chung Hồ Trần Ch. Ng. và Hồ Trần Th. N.. Hội đồng xét xử xét thấy nhằm để ổn định cuộc sống hiện tại và không làm ảnh hưởng đến tâm lý của các con chung, để các con chung được phát triển tốt về thể chất và tinh thần thì cần thiết giao cho bà Trần Thị D. được quyền tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung Hồ Trần Ch. Ng., sinh ngày 08/8/2016 và cháu Hồ Trần Th. N., sinh ngày 27/5/2019 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Ông Hồ Thanh Kh. được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

[4] Về tài sản chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về nợ chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, nguyên đơn bà Trần Thị D. phải chịu án phí hôn nhân và gia đình theo quy định. Bị đơn ông Hồ Thanh Kh. không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị D. đối với ông Hồ Thanh Kh..

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị D. được ly hôn với ông ông Hồ Thanh Kh..

- Về con chung: Giao cho bà Trần Thị D. được quyền tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung Hồ Trần Ch. Ng., sinh ngày 08/8/2016 và Hồ Trần Th. N., sinh ngày 27/5/2019 đến khi các cháu đủ 18 tuôi. Ông Hồ Thanh Kh. được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

- Về cấp dưỡng: Bà Trần Thị D. không yêu cầu ông Hồ Thanh Kh. cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Về nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

2. Về án phí: Bà Trần Thị D. phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí ông đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0009846 ngày 21/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên. Bà Trần Thị D. đã nộp xong.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên toà hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

4. Về việc thi hành án: Trong trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

93
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 63/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:63/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về