Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 63/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 63/2022/HNGĐ-ST NGÀY 10/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 10/8/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 164/2022/TLST-HNGĐ, ngày 06/5/2022 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2022/QĐST- HNGĐ ngày 11/7/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 51/2022/QĐHNGĐ-ST ngày 26/7/2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Bá Thị T – sinh năm:1995 (có đơn xin xét xử vắng mặt)

* Bị đơn: Ông Dương Tấn T – sinh năm: 1992 (vắng mặt) Cùng trú tại: Thôn N, xã P, huyện N, Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn nguyên đơn bà Bá Thị T trình bày: Bà và ông Dương Tấn T tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P-N vào ngày 16/10/2015. Quá trình vợ chồng chung sống xảy ra nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống. Ông T không lo làm ăn, không quan tâm gì đến vợ con, ông T thường xuyên cờ bạc gây ra nợ nần, nhiều lần giang hồ đến nhà đòi nợ hâm dọa vợ con, bà phải đi vay mượn trả cho người ta mới được yên ổn. Từ tháng 4 năm 2021 đến nay, bà và ông T đã sống ly thân không quan tâm gì đến nhau. Bà cùng các con sống tại nhà cha mẹ ruột của bà tại thôn N, xã P. Còn ông Thuận thì đi đâu không rõ. Tình cảm vợ chồng không còn, hạnh phúc gia đình không có nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho được ly hôn với ông T.

Về con chung: Có 02 người con chung tên Dương Ngọc Bảo T –sinh ngày 16/8/2015 và Dương Tấn Minh K –sinh ngày 16/11/2018. Hiện các con đang sống cùng với bà. Ông T không quan tâm và cũng không chu cấp tiền nuôi các con. Khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi các con, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Bị đơn ông Dương Tấn T: Vắng mặt từ khi Tòa án thụ lý hồ sơ cho đến phiên tòa xét xử hôm nay nên không có lời trình bày.

Chính quyền địa phương thôn N, xã P, huyện N - Nơi vợ chồng ông T, bà T sinh sống xác nhận: ông T và bà T chung sống có xảy ra nhiều mâu thuẫn. Vợ chồng đã sống ly thân, không thấy qua lại với nhau. Bà T đang nuôi các con tại địa phương và bà T nuôi con tốt. Còn ông T đi đâu không rõ, không báo cho chính quyền địa phương biết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Về tố tụng: kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử (HĐXX) nghị án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và thư ký phiên tòa luôn tuân theo pháp luật tố tụng; Nguyên đơn luôn chấp hành pháp luật. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng Tòa án đã thực hiện tống đạt thủ tục tố tụng theo quy định và xét xử vắng mặt bị đơn là đúng pháp luật. Về nội dung: đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về hôn nhân bà Bá Thị T được ly hôn với ông Dương Tấn T. Khi ly hôn giao 02 người con Dương Ngọc Bảo T –sinh ngày 16/8/2015, Dương Tấn Minh K – sinh ngày 16/11/2018 cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, ông T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu giải quyết. Về án phí bà T phải chịu án phí theo pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên. HĐXX sơ thẩm nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Bá Thị T có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông Dương Tấn T, yêu cầu được nuôi các con, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Đơn kiện đảm bảo về nội dung, hình thức. Các đương sự có nơi cư trú trên địa bàn huyện N. Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của BLTTDS, HĐXX xác định đây là vụ án Dân sự loại Hôn nhân gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N, Ninh Thuận.

Đối với bị đơn là ông Dương Tấn T vắng mặt trong suốt quá trình từ khi thụ lý vụ án, tiến hành các phiên hòa giải, đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa, mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của BLTTDS, nhưng ông T vẫn cố tình vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 BLTTDS, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt ông T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Thai và ông Thuận tự nguyện chung sống với nhau, có Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 92, quyển số 02 ngày 16/10/2015, tại Ủy ban nhân dân xã P, nên xác định là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2021 cho đến nay, không quan tâm nhau trong một thời gian dài. Mâu thuẫn của vợ chồng cũng đã được chính quyền địa phương nơi bà T và ông T sinh sống xác nhận.

Xét thấy, hôn nhân của giữa bà T và ông T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Thai.

[3] Về con chung: Bà T và ông T có 02 con chung Dương Ngọc Bảo T –sinh ngày 16/8/2015, Dương Tấn Minh K –sinh ngày 16/11/2018. Từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử ông Thuận vắng mặt không có ý kiến gì đối với yêu cầu nuôi con của bà T, từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay chính bà Thai là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con.

Xét thấy: Bà T yêu cầu được nuôi các con, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Việc các con đang sống cùng với bà Tvà bà T chăm con tốt có xác nhận của chính quyền địa phương nơi vợ chồng sinh sống. Ông Thuận không quan tâm đến con và cũng không chu cấp tiền nuôi con. Vì vậy HĐXX căn cứ Điều 81, 82 và 83 Luật HNGĐ năm 2014, chấp nhận giao 02 cháu Dương Ngọc Bảo T, Dương Tấn Minh K cho bà T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Ông T không phải cấp dưỡng nuôi con do bà T không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà T không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[5] Căn cứ vào những phân tích trên, xét thấy quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N là phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Bà T phải chịu án phí 300.000đ theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của BLTTDS, khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39; khoản 4 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1.Về hôn nhân: Bà Bá Thị T được ly hôn với ông Dương Tấn T.

2.Về con chung: Bà Bá Thị T có quyền và nghĩa vụ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 người con chung là cháu Dương Ngọc Bảo T–sinh ngày 16/8/2015 và Dương Tấn Minh K–sinh ngày 16/11/2018. Ông Dương Tấn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3.Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

4.Về án phí: Bà Bá Thị T phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn) nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0002490 ngày 05/5/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện N. Bà Bá Thị T đã nộp đủ án phí.

5.Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm có mặt nguyên đơn quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Vắng mặt bị đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày niêm yết bản án hoặc tống đạt hợp lệ bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

86
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 63/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:63/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Sơn - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về