Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 599/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 599/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số:

166/2022/TLST-HNGĐ, ngày 12 tháng 4 năm 2022 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 597/2022/QĐST-HNGĐ, ngày  02 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm: 1988; Địa chỉ: 42/5/9 đường Lý Tự Trọng, phường An Cư, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

* Bị đơn: Ông Trần Quốc T, sinh năm: 1983;

Địa chỉ: 42/5/9 đường Lý Tự Trọng, phường An Cư, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

(Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh Trúc trình bày theo đơn khởi kiện ngày  27/12/2021 như sau:

Bà và ông Trần Quốc T qua tìm hiểu và tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2006, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường Hưng Phú, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ, cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 92/HT, quyển số 01, ngày 24/05/2006. Bà trình bày quá trình chung sống vợ - chồng sống hạnh phúc với nhau thời gian đầu, có với nhau hai con chung tên 1. Trần Quốc T (Giới tính: Nam), sinh ngày: 28/07/2008; 2. Trần Tường V (Giới tính: Nữ), sinh ngày: 07/08/2006, thời gian sau này thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, vợ chồng không quan tâm đến nhau, hiện bà và ông Tuấn tuy sống chung nhưng ly thân với nhau. Mặc dù có tìm biện pháp hàn gắn hạnh phúc gia đình, nhưng không thành, mâu thuẫn ngày một trầm trọng. Nhận thấy, cuộc sống hôn nhân không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Trần Quốc T.

Về con chung: Có 02 (Hai) con chung tên

1. Trần Quốc T (Giới tính: Nam), sinh ngày: 28/07/2008;

2. Trần Tường V (Giới tính: Nữ), sinh ngày: 07/08/2006.

Khi ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung theo ý kiến nguyện vọng của con. Về cấp dưỡng nuôi con: bà yêu cầu ông Tuấn cấp dưỡng nuôi con chung. Mỗi con chung 1.500.000 đồng mỗi tháng, hai con là 3.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung: Bà xác định không có yêu cầu, không yêu cầu Tòa án giải  quyết.

Về nợ chung: Bà xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nếu sau này có tranh chấp tài sản chung, nợ chung giải quyết thành vụ kiện  khác.

  * Bị đơn ông Trần Quốc T vắng mặt không có ý kiến trình bày;

Tòa án tiến hành giải quyết vụ kiện theo quy định, do bị đơn vắng mặt không hòa giải được. Nên, tiến hành đưa vụ kiện ra xét xử công khai.

Tại phiên toà hôm nay: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên ý kiến trình bày. Về hôn nhận yêu cầu được ly hôn với ông Trần Quốc T, yêu cầu được trực tiếp nuôi hai con chung. Về cấp dưỡng bà xin rút lại yêu cầu cấp dưỡng. Lý do, hiện ông Tuấn không có công việc ổn định, việc cấp dưỡng để ông Tuấn tự nguyện không phải yêu cầu trong vụ kiện.

Đối với bị  đơn ông Trần Quốc T mặt dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ đến lần thứ hai nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không rõ lý do là tự tước đi quyền và lợi ích của mình. Nên, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định pháp luật và dành quyền kháng cáo đối với bị đơn theo quy định.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều trình bày ý kiến: Do vụ kiện Tòa án không có thực hiện thủ tục thu thập chứng cứ, chứng cứ do đương sự cung cấp nên Viện kiểm sát không phải tham gia phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án ly hôn giữa công dân với công dân; bà Nguyễn Thị Thanh T có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, nuôi con chung với ông Trần Quốc T, nên xác định quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Quan hệ tranh chấp này thuộc Luật Hôn nhân và Gia đình điều chỉnh. Bị đơn có nơi cư trú tại quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều theo Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Xét việc vắng mặt bị đơn, bị đơn ông Trần Quốc T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt, nguyên đơn có yêu cầu xét xử vắng mặt bị đơn. Nên, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227; Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiếp tục xét xử vụ kiện theo quy định.

[3] Xét tính hợp pháp: Giữa bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Trần Quốc T tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn năm 2006 tại UBND phường Hung Phú, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ, được cấp giấy chứng nhận kết hôn số  92/HT, quyển số 01/2006, cấp ngày 24/5/2006. Nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

[4] Xét về chứng cứ và nội dung giải quyết vụ kiện: Nguyên đơn trình bày nguyên đơn và bị đơn đã có thời gian dài chung sống vợ chồng với nhau, đồng thời  giữa nguyên đơn và bị đơn cũng có nhiều mâu thuẫn kéo dài, do bất đồng quan điểm sống, không tìm được biện pháp nào để hàn gắn, đã sống ly thân nhau. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn như lúc đầu, không thể chung sống với bị đơn được nữa nên yêu cầu ly hôn, đồng thời bà có ý kiến được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Hội đồng xét xử xét: Nguyên tắc của hôn nhân phải được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, tiến bộ, các thành viên trong gia đình phải có sự quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau để cùng xây dựng hạnh phúc gia đình. Nhưng giữa nguyên đơn và bị đơn đã không còn sự tin yêu, quan tâm chăm sóc nhau trong cuộc sống. Nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống, về cách đối xử vợ chồng trong cuộc sống hàng ngày không hòa hợp, Hội đồng xét xử thấy quá trình Tòa án giải quyết đã triệu tập hợp lệ đối với bị đơn để hòa giải cho các bên đoàn tụ. Tuy nhiên, bị đơn vẫn vắng mặt, điều này chứng tỏ bị đơn không còn tha thiết với cuộc hôn nhân này, nếu duy trì cuộc hôn nhân này mục đích hôn nhân vẫn không đạt được, cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài, thấy tình trạng hôn nhân giữa ông - bà là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh T yêu cầu xin ly hôn với bị đơn ông Trần Quốc T là có cơ sở chấp nhận theo quy định Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình (năm 2014).

[5] Về con chung: Đương sự trình bày có hai con chung tên 1. Trần Tường V (Giới tính: Nữ), sinh ngày: 07/08/2006; 2. Trần Quốc T (Giới tính: Nam), sinh  ngày: 28/07/2008. Ly hôn, bà Trúc có ý kiến trực tiếp nuôi dưỡng con chung; Trần Tường Vy và Trần Quốc Thắng cả hai trên bảy tuổi, có bản tự khai ghi nhận ý kiến “…nguyện vọng của con là được sống chung với mẹ của con…”. Căn cứ Điều 81,  82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là phù hợp với quy định của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Hội đồng xét xử đã giải thích pháp luật về quyền của trẻ em được pháp luật bảo vệ. Tại phiên tòa nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con, bị đơn vắng mặt không có ý kiến yêu cầu về cấp dưỡng, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì quyền lợi của trẻ em, nếu các đương sự thực hiện việc trực tiếp nuôi con chung chưa thành niên không tốt thì có thể yêu cầu Tòa án thay đổi quyền nuôi con hoặc yêu cầu được thay đổi cấp dưỡng và mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định pháp luật.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông T. Không ai được quyền ngăn cản ông T thực hiện quyền này.

[6] Về tài sản chung và nợ chung:

Về tài sản chung: Nguyên đơn xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Nguyên đơn xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nên tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi đương sự có yêu cầu.

[7] Xét, lời trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa là phù hợp với quy định  pháp luật, không trái với đạo đức xã hội nên chấp nhận.

[8] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ áp dụng:

- Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 174; Điều 175; Điều 179; Điều  227; Điều 228; Điều 238; Điều 266; Điều 267; Điều 273 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 51, 56, 72, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội (Quy định về án phí, lệ phí Tòa án), 

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con của bà Nguyễn Thị Thanh T với ông Trần Quốc T như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thanh T được ly hôn với ông Trần  Quốc T.

- Về con chung: Giao hai con chung tên 1. Trần Tường V (Giới tính: Nữ), sinh ngày: 07/08/2006; 2. Trần Quốc T (Giới tính: Nam), sinh ngày: 28/07/2008 cho bà Nguyễn Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Nguyên đơn không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung và bị đơn vắng mặt không có ý kiến. Nên, không xem xét giải quyết.

Vì quyền lợi của trẻ em, nếu các đương sự thực hiện việc trực tiếp nuôi con  chung chưa thành niên không tốt thì có thể yêu cầu Tòa án thay đổi quyền nuôi con hoặc yêu cầu được thay đổi cấp dưỡng và mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định pháp luật.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông T. Không ai có quyền ngăn cản ông T thực hiện quyền này.

Về tài sản chung: Nguyên đơn xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Nguyên đơn xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải   quyết.

Do bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nên tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi đương sự có tranh chấp và có đơn yêu cầu.

Về án phí:

- Bà Nguyễn Thị Thanh T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm. Chuyển tiền tạm ứng án phí nguyên đơn đã nộp theo biên lai thu 0001675, ngày 25/02/2022 thành án phí. Đương sự đã nộp xong tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26/09/2022) đối với nguyên đơn và kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú của bị đơn vắng mặt, được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử lại vụ kiện theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

572
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 599/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:599/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về