TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 58/2024/HNGĐ-ST NGÀY 01/04/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 01 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 43/2024/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
53/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị X, sinh năm 19xx; nơi cư trú: Thôn C, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
Bị đơn: Anh Trần Văn Y, sinh năm 19xx; nơi cư trú: Thôn C, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng. Hiện đang là Học viên tại Cơ sở cai nghiện ma túy Gia Minh - Thuộc Tổng đội thanh niên xung phong Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 19/01/2024 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Đỗ Thị X (nguyên đơn) trình bày:
Về hôn nhân: Chị Đỗ Thị X và anh Trần Văn Y kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng số 83 ngày 10 tháng 10 năm 2016. Sau cưới, vợ chồng về chung sống ăn ở tại thôn Cây Đa, xã A, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong công việc và nuôi dạy con chung dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng thờ ơ, lạnh nhạt và thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Do mâu thuẫn hiện vợ chồng chị X, anh Y hiện đã sống ly thân nhau. Nay chị X nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị X yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Y.
Về con chung: Chị Đỗ Thị X khai chị và anh Trần Văn Y có 02 con chung là Trần Gia M, sinh ngày 25 tháng 6 năm 2017 và Trần Gia N, sinh ngày 26 tháng 12 năm 2019, hiện chị X đang nuôi cả hai con. Ly hôn, chị X có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thỏa thuận khác theo quy định của pháp luật.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Đỗ Thị X khai chị và anh Trần Văn Y tự thỏa thuận và giao nhận với nhau nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Chị Đỗ Thị X khai chị và anh Trần Văn Y không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 08/3/2024, bị đơn là anh Trần Văn Y khai:
Về hôn nhân: Anh Trần Văn Y kết hôn với chị Đỗ Thị X trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng vào năm 2009. Sau cưới, vợ chồng về chung sống ăn ở tại thôn Cây Đa, xã A, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến tháng 10 năm 2022 thì anh Y mắc nghiện ma tuý phải đi cai nghiện bắt buộc dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt. Nay chị X xin ly hôn, anh Y nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh Y cũng đồng ý ly hôn chị X.
Về con chung: Anh Trần Văn Y khai anh và chị Đỗ Thị X có 02 con chung là Trần Gia M, sinh ngày 25 tháng 6 năm 2017 và Trần Gia N, sinh ngày 26 tháng 12 năm 2019, hiện cả hai con đang ở với bà nội. Ly hôn, anh Y yêu cầu Toà án giao cho anh Y được trực tiếp nuôi con tên Trần Gia N. Trong thời gian cai nghiện anh Y sẽ nhờ mẹ đẻ và các chị gái giúp đỡ chăm sóc nuôi dưỡng con thay cho anh Y.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Y không yêu cầu Toà án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Anh Trần Văn Y khai anh và chị Đỗ Thị X không có tài sản chung nên anh không yêu cầu tòa án giải quyết.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị Đỗ Thị X và anh Trần Văn Y đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, chị X và anh Y đều có đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228, khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị X và anh Y.
Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Thị X và anh Trần Văn Y đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị X và anh Y được ly hôn. Về con chung: Chị Đỗ Thị X và anh Trần Văn Y có 02 con chung là Trần Gia M, sinh ngày 25 tháng 6 năm 2017 và Trần Gia N, sinh ngày 26 tháng 12 năm 2019. Ly hôn, chị X có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cả hai con chung, anh Y có nguyện vọng được nuôi dưỡng con tên Trần Gia N. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh hiện trạng nuôi con, khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình giao cho chị Đỗ Thị X được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung là Trần Gia M và Trần Gia N cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung, đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp Hôn nhân và gia đình về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn. Bị đơn là anh Trần Văn Y có nơi cư trú tại xã A, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Chị Đỗ Thị X và anh Trần Văn Y đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, chị X và anh Y đều có đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228, khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị X và anh Y.
[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Thị X và anh Trần Văn Y được xác lập năm 2016 là hợp pháp. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện: Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong lao động, trong sinh hoạt dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt. Do mâu thuẫn, chị X và anh Y hiện đã sống ly thân nhau. Chị X xin ly hôn, anh Y xác nhận tình cảm vợ chồng không còn nên cũng đồng ý ly hôn. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị X và anh Y đã lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 55, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị X và anh Y được ly hôn.
[3] Về con chung: Chị Đỗ Thị X và anh Trần Văn Y thống nhất khai có 02 con chung là Trần Gia M, sinh ngày 25 tháng 6 năm 2017 và Trần Gia N, sinh ngày 26 tháng 12 năm 2019. Ly hôn, chị X có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cả hai con chung, anh Y có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con tên Trần Gia N. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy, anh Y hiện đang trong thời gian cai nghiện bắt buộc nên không có đủ điều kiện trực tiếp nuôi con. Mặt khác từ khi sống ly thân đến nay, chị X là người chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con chung và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt. Vì vậy, giao cho chị Đỗ Thị X được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Trần Gia M và Trần Gia N cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình.
[5] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Đỗ Thị X và anh Trần Văn Y không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[6] Về tài sản chung: Chị Đỗ Thị X và anh Trần Văn Y thống nhất khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí Tòa án thì chị Đỗ Thị X phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn do pháp luật quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đỗ Thị X và anh Trần Văn Y.
2. Về con chung: Giao cho chị Đỗ Thị X được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Trần Gia M, sinh ngày 25 tháng 6 năm 2017 và Trần Gia N, sinh ngày 26 tháng 12 năm 2019 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Đỗ Thị X phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị X đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0009797 ngày 26 tháng 02 năm 2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Đỗ Thị X đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Đỗ Thị X và anh Trần Văn Y vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 58/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 58/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 01/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về