Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 48/2023/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẤT ĐỎ, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 48/2023/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 57/2023/TLST-HNGĐ ngày 17/4/2023, về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 26/6/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 33/2023/QĐST-HNGĐ ngày 14/7/2023; giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị V, sinh năm: 1988; địa chỉ: ấp A, xã An Nhứt, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Anh K, sinh năm: 1985; địa chỉ: khu phố P, thị trấn Đất Đỏ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03/4/2023, bản tự khai, biên bản hòa giải, nguyên đơn bà Nguyễn Thị V trình bày:

Bà và ông Nguyễn Anh K tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2017, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc, có tổ chức hỏi, cưới. Sau khi cưới, ông bà chung sống tại địa chỉ: khu phố P, thị trấn Đất Đỏ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Bà V và ông K chung sống hạnh phúc đến năm 2022 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, cuộc sống chung không hòa hợp, ông K thiếu trách nhiệm với gia đình và thường xuyên đi nhậu với bạn bè.

Tình trạng trên kéo dài mà không thể giải quyết được nên ông bà thường xảy ra tranh cãi và mâu thuẫn ngày càng lớn hơn. Bà đã cho ông K rất nhiều cơ hội nhưng ông K vẫn không sửa đổi.

Bà V và ông K tuy vẫn sống chung nhà nhưng đã ly thân từ tháng 12 năm 2022 đến nay, không ai còn quan tâm gì đến nhau về tình cảm lẫn như cuộc sống thường ngày. Nhận thấy giữa bà và ông K mạnh ai lấy sống, không còn tình cảm với nhau nữa, đề nghị TAND huyện Đất Đỏ cho bà được ly hôn với ông K.

Về con chung: Bà V và ông K có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng Y, sinh ngày 08/11/2018, bà V đang trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Bà V yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Anh K:

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ đã tiến hành thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông K biết, Trong quá trình giải quyết vụ án đã tiến hành triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông K vắng mặt không có lý do. Do đó Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai cũng như không thể tiến hành hòa giải được.

- Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa: Quá trình tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến trước khi khai mạc phiên tòa, Thẩm phán đã tiến hành đúng các quy định về thủ tục tố tụng được quy định tại Điều 48 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định tại chương XIV Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Những người tham gia tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn Anh K đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt; nguyên đơn bà Nguyễn Thị V có đơn xin xét xử vắng mặt; căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị vẫn tiến hành xét xử vụ án theo luật định.

Về nội dung vụ án: Yêu cầu của bà Nguyễn Thị V xin ly hôn với ông Nguyễn Anh K là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, Bà V được ly hôn với ông K; Về con chung: có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng Y, sinh ngày 08/11/2018, hiện con chung đang do bà V trực tiếp nuôi dưỡng. Bà V có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giao con chung cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng; Về vấn đề cấp dưỡng: Đương sự không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Nguyễn Thị V yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Anh K, bị đơn đang cư trú tại huyện Đất Đỏ, thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn ông Nguyễn Anh K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt; nguyên đơn bà Nguyễn Thị V có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu của nguyên đơn:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Bà Nguyễn Thị V và ông Nguyễn Anh K tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 97 ngày 27/4/2017 của Ủy ban nhân dân thị trấn Đất Đỏ, nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Theo lời trình bày của bà V thì trong quá trình chung sống, giữa ông bà thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, tranh cãi do bất đồng quan điểm sống, cuộc sống chung không hòa hợp. Ông K hay nhậu với bạn bè, thiếu trách nhiệm với gia đình. Tình trạng trên kéo dài mà không thể giải quyết được nên hai bên thường xảy ra tranh cãi và mâu thuẫn ngày càng lớn hơn. Bà V và gia đình đã khuyên nhủ, bỏ qua nhiều lần nhưng ông K vẫn không thay đổi. Bà V và ông K đã ly thân từ tháng 12 năm 2022 đến nay. Bà V nhận thấy cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, mạnh ai nấy sống, không quan tâm đến nhau nên không thể duy trì cuộc hôn nhân này được nữa.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông K, tại thông báo có nêu rõ yêu cầu khởi kiện và những tài liệu chứng cứ mà bà V đã giao nộp cho Tòa án. Đồng thời đã nhiều lần triệu tập ông K đến Tòa án để ông trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu ly hôn của bà V; cũng như thông báo để ông K tham gia các phiên hòa giải nhưng ông đều vắng mặt không có lý do. Như vậy lời khai của bà V về việc gia đình mâu thuẫn, không có hạnh phúc là có cơ sở. Việc ông K không đến Tòa án để làm việc, để tham gia hòa giải và tham gia phiên tòa sơ thẩm đã chứng minh ông không còn quan tâm đến hạnh phúc gia đình, tình trạng mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà V.

[2.2] Về con chung: Bà V và ông K có 01 con chung tên là Nguyễn Hoàng Y, sinh ngày 08/11/2018 hiện con chung đang do bà V trực tiếp nuôi dưỡng nên chấp nhận yêu cầu của bà V được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung đến tuổi trưởng thành và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà V không có yêu cầu ông K phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.5] Về án phí: Bà V phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 227, 238, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị V được ly hôn với ông Nguyễn Anh K.

2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Hoàng Y, sinh ngày 08/11/2018 cho bà Nguyễn Thị V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục sau khi ly hôn đến khi con chung lần lượt đủ tuổi trưởng thành (18 tuổi). Ghi nhận sự tự nguyện của bà V không yêu cầu ông K không cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, ông Nguyễn Anh K được quyền thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con, nếu họ lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi việc nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị V phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0010195 ngày 04/4/2023 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Đất Đỏ. Bà V đã nộp xong án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản sao bản án hoặc bản sao bản án được niêm yết hợp lệ, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 48/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:48/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:31/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về