Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 48/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 48/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/12/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 08 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 73/2021/TLST-HNGĐ ngày 24/6/2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2021/QĐXX-ST ngày 18 tháng 10 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Thanh N, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn A, xã H, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Trần Duy P, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn A, xã H, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 23/6/2021, quá trình tố tụng và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn là bà Lê Thị Thanh N trình bày:

Bà và ông Trần Duy P xây dựng gia đình với nhau có tổ chức lễ cưới theo phong tục truyền thống vào năm năm 2006, đến năm 2009 thì đăng ký kết hôn tại UBND xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng về sống chung tại địa chỉ thôn Tân Ninh, xã Hòa Liên; đến năm 2016 thì về sống chung tại thôn A, xã H, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Trong quá trình chung sống thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình quan điểm sống không hợp, ông P nhiều lần chửi mắng, đánh đập bà. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 3/2021 đến nay, mỗi người mỗi nơi không còn quan tâm gì đến nhau. Nay bà xác định không còn tình cảm gì với ông P nữa, không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa nên bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông P.

Về quan hệ con chung: Bà xác định bà và ông P có 02 con chung tên là Trần Hoàng Gia Lâm, sinh ngày 06/5/2007 và Trần Hoàng Gia Huy, sinh ngày 20/8/2012. Ly hôn bà N có nguyện vọng được nuôi con Trần Hoàng Gia Huy và giao con Trần Hoàng Gia Lâm cho ông P nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Ông Trần Duy P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do và không có văn bản ghi ý kiến gửi Tòa án:

* Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án: Giấy chứng nhận kết hôn, bản sao giấy khai sinh của con chung, bản sao CMND và Sổ hộ khẩu của nguyên đơn; bản tự khai của nguyên đơn, biên bản xác minh tại địa P của Tòa án.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, nguyên đơn đã chấp hành đúng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, riêng bị đơn không chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của bà Lê Thị Thanh N và áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình xử cho bà Lê Thị Thanh N được ly hôn ông Trần Duy P. Về con chung: Đề nghị xử giao con chung Trần Hoàng Gia Huy cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Trần Hoàng Gia Lâm cho ông P trực tiếp nuôi dưỡng; không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Bà N không yêu cầu giải quyết nên không đề cập đến. Về án phí sơ thẩm bà N phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn bà Lê Thị Thanh N khởi kiện bị đơn là ông Trần Duy P về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, bị đơn có địa chỉ nơi cư trú tại huyện Hòa Vang. Do vậy, đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Bà Lê Thị Thanh N và ông Trần Duy P xây dựng gia đình với nhau có đăng ký kết hôn vào 2009 tại UBND xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Đây là hôn nhân hội đủ các điều kiện do Luật hôn nhân và gia đình quy định nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bà N xác định mâu thuẫn vợ chồng đã quá trầm trọng nên tha thiết xin ly hôn, còn ông P vắng mặt không có ý kiến phản hồi. Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Quá trình sống chung thì giữa vợ chồng bà N và ông P xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình quan điểm sống không hợp, qua xác minh tại địa P thì giữa vợ chồng bà N và ông P có xảy ra cải vã với nhau; hiện ông bà đã sống ly thân, mỗi người mỗi nơi. Ông P đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng vắng mặt và không có ý kiến phản hồi nên thể hiện ý chí không mong muốn hàn gắn mâu thuẫn và níu kéo cuộc hôn nhân này. Như vậy, mâu thuẫn vợ chồng bà N và ông P đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu xin được ly hôn của bà N là chính đáng, phù hợp với pháp luật nên cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho bà N được ly hôn đối với ông P. .

[2.2] Về con chung: Bà N và ông P có 02 con chung tên là Trần Hoàng Gia Lâm, sinh ngày 06/5/2007 và Trần Hoàng Gia Huy, sinh ngày 20/8/2012. Ly hôn, bà N có nguyện vọng được nuôi con Trần Hoàng Gia Huy và giao con Trần Hoàng Gia Lâm cho ông P nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, con chung Trần Hoàng Gia Huy có nguyện vọng được sống cùng với mẹ, con chung Trần Hoàng Gia Lâm có nguyện vọng được sống cùng cha khi cha mẹ ly hôn; hiện nay bà N đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Hoàng Gia Huy, còn ông P đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Hoàng Gia Lâm. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy cần giao con Trần Hoàng Gia Huy cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng và giao con chung Trần Hoàng Gia Lâm cho ông P trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với ý chí mong muốn của con chung, đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của con chung. Bà N và ông P không phải cấp dưỡng nuôi con. Các bên đương sự vẫn được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[2.4] Án phí Dân sự sơ thẩm về việc ly hôn: 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) bà N phải chịu theo quy định của pháp luật.

[3] Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 147, 227, 235, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Thanh N đối với ông Trần Duy P về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con".

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Lê Thị Thanh N được ly hôn ông Trần Duy P.

2. Về con chung: Giao con chung tên là Trần Hoàng Gia Huy, sinh ngày 20/8/2012 cho bà Lê Thị Thanh N trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung tên là Trần Hoàng Gia Lâm, sinh ngày 06/5/2007 cho ông Trần Duy P trực tiếp nuôi dưỡng; không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Quyền và nghĩa vụ đối với con chung, các bên đương sự được thực hiện theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị Thanh N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Án phí Dân sự sơ thẩm về việc ly hôn 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) bà Lê Thị Thanh N phải chịu nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 8321 ngày 23/6/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Bà Lê Thị Thanh N đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

5. Án xử công khai sơ thẩm, đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 48/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:48/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà Vang - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về