Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 45/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 45/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nga Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 163/2022/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 7 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2022/QĐXX-ST, ngày 08 tháng 9 năm 2022, giữa:

1/ Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L - Sinh năm 1995 Địa chỉ: Số nhà 76, ngõ 128, đường P, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội; (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

2/ Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T - Sinh năm 1993 Địa chỉ: Thôn Tân Hải, xã Nga P, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 19/7/2022 và bản tự khai, nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày: chị và anh T kết hôn với nhau vào ngày 12/01/2015, trên cơ sở tự nguyện, được UBND xã Nga P cấp đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống không hạnh phúc, thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân: do quan điểm sống không hòa hợp, anh T có quan hệ với người phụ nữ khác nên vợ chồng không tìm được tiếng nói chung. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 2/2022 đến nay.Trong thời gian sống ly thân, chị đi làm ngoài Hà Nội, còn anh T thì ở nhà. Trong thời gian sống ly thân, chị và anh T không còn quan tâm đến nhau, đặc biệt vào tháng 5/2022 khi chị bị tai nạn có điện thoại thông báo cho anh T biết nhưng anh không có ý kiến gì, không ra thăm hỏi, động viên. Chị thấy rằng cuộc sống chung vợ chồng không thể tiếp tục duy trì, chị đề nghị được ly hôn anh T theo quy định. Về con: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Thị Ngọc D, sinh ngày 29/9/2015 và Nguyễn Trọng Ph, sinh ngày 14/12/2018. Hiện tại cháu D đang ở cùng chị và ông bà ngoại; cháu Ph đang ở với bố. Sau ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Nếu giải quyết theo quy định của pháp luật, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu D, còn cháu Ph giao cho anh T nuôi; không bên nào phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho bên nào.Về tài sản: vợ chồng không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn T trình bày: Về hôn nhân: anh thống nhất như ý kiến chị L về ngày tháng năm kết hôn, cơ sở việc kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng không còn tiếng nói chung, xảy ra nhiều mâu thuẫn. Cuối năm 2021, vợ chồng sống ly thân. Về nguyên nhân chị L nói anh ngoại tình là không đúng. Chị L đề nghị ly hôn, vì anh theo đạo nên anh không đồng ý ly hôn. Về con: anh đồng ý lời trình bày của chị L về con chung. Hiện cháu D đang ở cùng chị L và ông bà ngoại; cháu Ph đang ở với anh. Nếu phải ly hôn anh yêu cầu được trực tiếp nuôi cả 02 con, không yêu cầu chị L cấp dưỡng tiền nuôi con chung; còn nếu không được nuôi 02 con, anh yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Ph, chị L trực tiếp nuôi cháu D, không bên nào phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho bên nào. Về tài sản: vợ chồng không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Vụ án có liên quan đến người chưa thành niên, Tòa án đã tiến hành xác minh nguyên nhân phát sinh tranh chấp theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 208 của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS).

Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, các đương sự không thống nhất được các nội dung giải quyết.Vì vậy,Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử theo quy định.

Tại phiên tòa hôm nay, chị L; anh T đều vắng mặt, (có đơn xin xét xử vắng mặt). Căn cứ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Những người tham gia tố tụng: nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

- Về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị L, cho chị L được ly hôn anh T.Về con: giao cháu Nguyễn Thị Ngọc D, sinh ngày 29/9/2015 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng; giao cháu Nguyễn Trọng Ph, sinh ngày 14/12/2018 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Về án phí: chị L phải chịu án phí DSST theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và ý kiến của các đương sự đã trình bày, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về thủ tục tố tụng: Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

* Về nội dung:

[1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Văn T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Theo các đương sự trình bày trong cuộc sống, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, đã sống ly thân. Chị L yêu cầu ly hôn, anh T thừa nhận vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn nhưng anh là người theo đạo nên anh không đồng ý ly hôn.

Xét thấy cuộc sống chung của chị L và anh T đã phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng đã sống ly thân nhau, cuộc sống chung không thể duy trì, mục đích hôn nhân không đạt được nên HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị L, cho chị L ly hôn anh T là phù hợp quy định của pháp luật.

[2] Về con: vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Thị Ngọc D, sinh ngày 29/9/2015 và Nguyễn Trọng Ph, sinh ngày 14/12/2018. Chị L và anh T đều đề nghị được nuôi con; không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu của chị Lê, anh T về việc nuôi con là chính đáng. Qua xác minh tại UBND xã Nga P thì cháu D đang ở cùng ông bà ngoại và chị L; cháu Ph đang ở cùng anh T. Để chị L và anh T đều có trách nhiệm trong việc chăm sóc, nuôi dạy con chung, nên giao cháu D cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng; giao cháu Ph cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp thực tế và đúng quy định của pháp luật.

* Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L và anh T không phải thực hiện việc cấp dưỡng nuôi con chung.

[3] Về tài sản: Chị L, anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

[4] Về án phí: Chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị L, cho chị L được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

2. Về con: Giao cháu Nguyễn Thị Ngọc D, sinh ngày 29/9/2015 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng; giao cháu Nguyễn Trọng Ph, sinh ngày 14/12/2018 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng; không bên nào phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu án phí DSST về việc ly hôn là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí DSST đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2021/0015008 ngày 22/7/2022 của Chi cục THADS huyện Nga Sơn, chị L đã nộp đủ án phí DSST.

4. Quyền kháng cáo: Chị L, anh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

61
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 45/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:45/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về