Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 45/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 45/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 118/2022/TLST-HNGĐ, ngày 08 tháng 7 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2022/QĐXX-ST ngày 12 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1993; địa chỉ cư trú: Thôn 5, xã Tú Sơn, huyện K, thành phố Hải Phòng; có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Đức T1, sinh năm 1985; địa chỉ cư trú: Thôn 5, xã Tú Sơn, huyện K, thành phố Hải Phòng; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 04/7/2022 và bản tự khai ngày 19/7/2022, chị T trình bày: Chị tự nguyện kết hôn với anh Nguyễn Đức T1 thời gian năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tú Sơn, K. Nói chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 07 năm. Tuy nhiên trong quá trình sống chung mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ giữa năm 2020 do phong cách sống không còn phù hợp, vợ chồng không thống nhất trong làm ăn kinh tế, không cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình, khi nóng giận anh T1 nói lời ghen tuông vô cớ với chị. Vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Mặc dù chị đã nhiều lần khuyên bảo anh T1 thay đổi cách sống, gia đình thôn xóm đã hòa giải nhiều lần để vợ chồng trở lại sống đoàn tụ nhưng không thành. Chị bỏ về nhà mẹ đẻ ở nhiều lần, lần sau cùng từ tháng 6/2022 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài; chị xin ly hôn anh T1.

Về con chung: Có 02 con là Nguyễn Đức T2, sinh ngày 29/3/2014 và Nguyễn Gia H, sinh ngày 25/3/2020. Hiện cháu T2 đang do anh T1 nuôi dưỡng, cháu H đang do chị nuôi dưỡng. Chị xin tiếp tục nuôi dưỡng cháu H, nhất trí để anh T1 tiếp tục nuôi dưỡng cháu T2, đến khi cả hai con đủ 18 tuổi; trên cơ sở nguyện vọng của cháu T2. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; giữa chị T và anh T1 thỏa T2 tự giao nhận với nhau, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn Đức T1 trình bày tại bản tự khai ngày 19/7/2022: Thống nhất với chị T về thời gian kết hôn, thời gian vợ chồng chung sống hạnh phúc. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ giữa năm 2020 do phong cách sống không còn phù hợp, vợ chồng không thống nhất trong làm ăn kinh tế, không cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình, khi nóng giận anh có nói lời ghen tuông với chị, nhưng khi bình tĩnh lại anh vẫn tin tưởng chị T. Vợ chồng có xảy ra đánh cãi nhau. Mặc dù anh và gia đình thôn xóm đã hòa giải nhiều lần để vợ chồng trở lại sống đoàn tụ nhưng không thành. Chị T bỏ về nhà mẹ đẻ ở nhiều lần, lần sau cùng từ tháng 6/2022 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã kéo dài trầm trọng nhưng anh xin chị T bỏ qua những mâu thuẫn cũ để vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con chung.

Về con chung: Có 02 con là Nguyễn Đức T2, sinh ngày 29/3/2014 và Nguyễn Gia H, sinh ngày 25/3/2020. Hiện cháu T2 đang do anh nuôi dưỡng, cháu H đang do chị T nuôi dưỡng. Nếu chị T kiên quyết ly hôn, anh xin tiếp tục nuôi dưỡng cháu T2, nhất trí để chị T tiếp tục nuôi dưỡng cháu H, đến khi cả hai con đủ 18 tuổi; trên cơ sở nguyện vọng của cháu T2. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; giữa anh T1 và chị T thỏa T2 tự giao nhận với nhau, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Nguyên đơn, bị đơn chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh T1 tự nguyện kết hôn năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tú Sơn, K. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến giữa năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn đến nay ngày càng trầm trọng, tình cảm không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài. Chị T bỏ về mẹ đẻ ở nhiều lần, lần sau cùng từ tháng 6/2022 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Anh T1 cũng thừa nhận tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không còn tồn tại. Nay chị T xin ly hôn, anh T1 xin đoàn tụ. Xét yêu cầu của hai bên thấy rằng tình trạng hôn nhân của vợ chồng rất trầm trọng, tình cảm không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài; Nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T. Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Nguyễn Đức T1.

2. Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Đức T2, sinh ngày 29/3/2014 và Nguyễn Gia H, sinh ngày 25/3/2020. Hiện cháu T2 đang do anh T1 nuôi dưỡng, cháu H đang do chị T nuôi dưỡng. Nay anh chị đều thống nhất: Giao cháu T2 cho anh T1 nuôi dưỡng, giao cháu H cho chị T nuôi dưỡng đến khi cả 02 cháu đủ 18 tuổi; cháu T2 cũng có nguyện vọng được ở với anh T1; cần chấp nhận. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị T và anh T1 đều đủ điều kiện kinh tế và chỗ ở ổn định để nuôi con, không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Căn cứ vào Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Giao cháu Nguyễn Đức T2, sinh ngày 29/3/2014 cho anh T1 nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Gia H, sinh ngày 25/3/2020 cho chị T nuôi dưỡng đến khi cả 02 cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, hai bên đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết; nên không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản, công nợ: Đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị T phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị T tự nguyện kết hôn với anh T1 năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tú Sơn, K. Đánh giá chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 07 năm. Song trong thời gian sống chung mâu thuẫn phát sinh từ giữa năm 2020 do phong cách sống không còn phù hợp, vợ chồng không thống nhất trong làm ăn kinh tế, không cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình. Vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Mặc dù đã được gia đình, thôn xóm hòa giải nhiều lần để vợ chồng sống đoàn tụ nhưng không thành. Chị T bỏ về nhà mẹ đẻ ở nhiều lần, lần sau cùng từ tháng 6 năm 2022 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị T xin ly hôn, còn anh T1 xin đoàn tụ. Nhưng qua điều tra xác minh theo yêu cầu của đương sự tại chính quyền địa phương cho biết: Mâu thuẫn vợ chồng xảy ra từ giữa năm 2020 đến nay ngày càng trầm trọng, tình cảm không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, thực tế vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 6 năm 2022 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Do đó yêu cầu xin ly hôn của chị T là có cơ sở chấp nhận; Nên xử cho chị T được ly hôn anh T1 là phù hợp.

[2] Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Đức T2, sinh ngày 29/3/2014 và Nguyễn Gia H, sinh ngày 25/3/2020, hiện cháu T2 đang do anh T1 nuôi dưỡng, cháu H đang do chị T nuôi dưỡng. Nay anh chị đều thống nhất: Giao cháu T2 cho anh T1 nuôi dưỡng, giao cháu H cho chị T nuôi dưỡng đến khi cả 02 cháu đủ 18 tuổi và cháu T2 có nguyện vọng ở với anh T1 được chấp nhận. Cần giao cháu T2 cho anh T1 tiếp tục nuôi dưỡng, giao cháu H cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng đến khi cả 02 cháu đủ 18 tuổi là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, hai bên đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết; nên không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản, công nợ: Đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Nguyễn Đức T1.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Đức T2, sinh ngày 29/3/2014 cho anh T1 nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cháu Nguyễn Gia H, sinh ngày 25/3/2020 cho chị T nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, hai bên đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0001714 ngày 08 tháng 7 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Chị T đã chịu đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án Trong T1 hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa T2 thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

101
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 45/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:45/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về