TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L- TỈNH Y
BẢN ÁN 43/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 19 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện L- tỉnh Y, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 23/2022/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 02 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2022/QĐXX-ST ngày 22 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị O 24 tuổi Địa chỉ: Thôn Tr T- xã T- huyện L- tỉnh Y, có mặt.
Bị đơn: Anh Nguyễn Mạnh S 28 tuổi Địa chỉ: Tổ 10 thị trấn Y Th- huyện L- tỉnh Y, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 11-02-2022 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị O trình bày: Chị và anh Nguyễn Mạnh S kết hôn tháng 12 năm 2017 trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Y Th- huyện L- tỉnh Y. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 01 năm, đến cuối năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh S ham chơi, không tu chí làm ăn, mỗi lần anh S đi chơi về lại chửi chị... Mặc dù gia đình đã khuyên nhủ nhưng anh S không thay đổi, vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2022. Xác định tình cảm vợ chồng không còn chị đề nghị giải quyết cho ly hôn. Về con chung: Chị và anh Nguyễn Mạnh S có một cháu là Nguyễn Ngọc Q sinh ngày 30-11-2018; khi ly hôn chị sẽ nuôi cháu Quỳnh, không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng nuôi con. Thời gian chung sống vợ chồng không có tài sản chung, không nợ của ai.
Sau khi thụ lý vụ án, Toà án nhân dân huyện L- tỉnh Y đã ra văn bản thông báo và triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh Nguyễn Mạnh S vắng mặt nên Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục pháp luật quy định.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L- tỉnh Y phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng thủ tục tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ; bị đơn đã được triệu tập nhưng không có mặt là chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định điều 70 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên xử cho chị O được ly hôn với anh S, giao con cho chị O trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; chị O phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Tranh chấp giữa chị Nguyễn Thị O và anh Nguyễn Mạnh S là tranh chấp về hôn nhân và gia đình; các đương sự có địa chỉ thường trú tại huyện L- tỉnh Y nên Tòa án nhân dân huyện L thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Mặc dù đã được triệu tập, cấp, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Nguyễn Mạnh S vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án; vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định tại điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị O và anh Nguyễn Mạnh S kết hôn năm 2017, việc kết hôn này tuân thủ đúng những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình do đó đây là hôn nhân hợp pháp.
Tại điều 19 luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Kết quả xác minh tại địa phương cơ bản phù hợp với lời khai của nguyên đơn cho thấy do nhiều nguyên nhân nên trong thời gian qua vợ chồng chị O- anh S không hạnh phúc, trong đó nguyên nhân chính là do quan điểm, tính cách, lối sống không hợp nhau; mỗi bên đều cho rằng bên kia có quan hệ tình cảm với người khác... Hai người hiện cũng đã sống ly thân không còn quan tâm đến nhau nữa. Qúa trình giải quyết vụ án chị O khẳng đình tình cảm vợ chồng không còn và kiên quyết đề nghị giải quyết cho ly hôn. Qua đó cho thấy hôn nhân giữa chị O và anh S đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị O có căn cứ chấp nhận.
[3] Về con chung: Chị O và anh S có một cháu là Nguyễn Ngọc Q sinh ngày 30-11-2018. Qúa trình giải quyết vụ án chị O đề nghị được nuôi cháu Q, không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng nuôi con.
Xét hoàn cảnh thực tế anh S đang đi làm xa; cháu Q còn nhỏ nên rất cần sự gần gũi, chăm sóc của người mẹ. Để đảm bảo sự ổn định trong cuộc sống S hoạt, cần giao cháu Nguyễn Ngọc Q cho chị O trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với hoàn cảnh thực tế, phù hợp với quy định của pháp luật. Do chị O không yêu cầu nên anh S không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom con chung.
[4] Về tài sản chung; nợ chung: Chị O xác định không có.
[5] Về án phí: Chị O phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L- tỉnh Y về việc giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ khoản 1 điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chị Nguyễn Thị O được ly hôn với anh Nguyễn Mạnh S.
2- Về con chung: Căn cứ các điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; giao cháu Nguyễn Ngọc Q sinh ngày 30-11-2018 cho chị Nguyễn Thị O trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Mạnh S không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh S thực hiện quyền này.
3- Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; chị Nguyễn Thị O phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn. Xác nhận chị O đã nộp đủ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L- tỉnh Y theo biên lai số AA/2021/0002165 ngày 11-02-2022.
4- Quyền kháng cáo: Căn cứ điều 271, điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; chị Nguyễn Thị O có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Nguyễn Mạnh S có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 43/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 43/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 19/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về