Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 42/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG – THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 42/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 6 năm 2022 tại hội trường xử án, Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 281/2022/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2022 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 27-5-2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Dương Thúy L, sinh năm 1989 (có mặt) Địa chỉ: Số 17/11 đường Phạm Ngũ L, phường 1, thành phố Vũng T, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu V, sinh năm 1987 (vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố 2, phường Đài S, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

Hiện đang chấp hành án tại Đội 6, Phân trại số 1, Trại giam S, thôn Phước T, xã Phước T, huyện Bác A, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 06-4-2022, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa Nguyên đơn chị Dương Thúy L trình bày:

Chị và anh Nguyễn Hữu V quen biết, tìm hiểu và tiến tới hôn nhân tự nguyện, có tổ chức đám cưới, đăng ký kết hôn tại UBND phường Đài Sơn ngày 05-12-2008, giấy CNKH số 67. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc tại nhà chồng ở Đài Sơn. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do anh V không chịu làm ăn, ham chơi với bạn bè, cá độ đá banh, số đề và hút ma túy đá. Dù chị đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh V không thay đổi. Hiện nay anh V đang chấp hành án tại Trại giam Sông Cái về tội “Cướp tài sản” mức án 09 năm tù. Chị đã dọn đồ và dẫn con về Vũng T sinh sống từ năm 2018 cho đến nay, hiện nay chị sống ở Vũng T cùng với con.

Hiện nay chị không còn tình cảm với anh V nữa, chị xin ly hôn.

Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Dương Thảo N, sinh ngày 30-4-2009 và Nguyễn Hữu L1, sinh ngày 18-9-2015, hai con hiện nay đang ở với chị. Chị xin nuôi hai con và không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Bị đơn anh Nguyễn Hữu V trình bày tại bản khai ngày 24-5-2022: Anh xác nhận về hôn nhân và con chung đúng như chị L trình bày. Đối với yêu cầu xin ly hôn của chị L anh đồng ý, anh đồng ý giao 02 con chung tên Nguyễn Dương Thảo N, sinh ngày 30-4-2009 và Nguyễn Hữu L1, sinh ngày 18-9-2015 cho chị L nuôi dưỡng. Anh không có tiền để cấp dưỡng vì anh đang chấp hành án. Anh đề nghị Tòa án xét xử vụ án vắng mặt anh.

Vợ chồng không có tài sản chung.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi HĐXX vào nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Nguyên đơn, bị đơn đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, tại phiên tòa hôm nay Bị đơn vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử xử vắng mặt bị đơn. HĐXX đúng thành phần theo quy định, xét xử đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ các điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Nguyên đơn, giao 02 con chung tên Nguyễn Dương Thảo N, sinh ngày 30-4-2009 và Nguyễn Hữu L, sinh ngày 18-9-2015 cho chị Dương Thúy L trực tiếp nuôi dưỡng, anh V không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Căn cứ vào đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ kiện này là: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự; thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[1.2] Tại phiên tòa hôm nay Bị đơn vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt Bị đơn.

[2] Về nội dung:

Xét yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định:

[2.1] Quan hệ hôn nhân giữa chị Dương Thúy L và anh Nguyễn Hữu V được xác lập trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đây là hôn nhân hợp pháp.

Tại phiên tòa chị L trình bày mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ năm 2016 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do anh V không chịu làm ăn, ham chơi với bạn bè, cá độ đá banh, số đề và hút ma túy đá. Dù chị đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh V không thay đổi. Chị cùng các con dọn đồ về Vũng Tàu sinh sống từ năm 2018 cho đến nay.

Tại bản khai ngày 24-5-2022 anh Nguyễn Hữu V đồng ý ly hôn, hiện nay anh đang chấp hành án tại Trại giam S nên không thể tham dự phiên tòa được.

Xét thấy, vợ chồng đã sống ly thân, không ai còn tình cảm với nhau nữa, anh V đồng ý ly hôn. Mục đích hôn nhân giữa chị L và anh V không đạt được, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L.

[2.2] Về quan hệ con cái: Chị L và anh V có 02 con chung tên Nguyễn Dương Thảo N, sinh ngày 30-4-2009 và Nguyễn Hữu L1, sinh ngày 18-9-2015, chị L có nguyện vọng nuôi 02 con. Chị L làm nghề kinh doanh tự do có thu nhập trên 10 triệu đồng/tháng, các cháu hiện nay đang sống với chị L, anh V đồng ý giao 02 cháu cho chị L nuôi dưỡng nên Hội đồng xét xử giao cháu Nguyễn Dương Thảo N, sinh ngày 30-4-2009 và Nguyễn Hữu L1, sinh ngày 18-9-2015 cho chị Dương Thúy L trực tiếp nuôi dưỡng sẽ đảm bảo tốt nhất cho các cháu. Về cấp dưỡng nuôi con, do chị L không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa giải quyết trong vụ án này.

[3] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, phù hợp với những nhận định trên, nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Khoản 1 Điều 56, các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 26, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn chị Dương Thúy L.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thúy L được ly hôn với anh Nguyễn Hữu V.

Về con chung: Chị Dương Thúy L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung Nguyễn Dương Thảo N, sinh ngày 30-4-2009 và Nguyễn Hữu L, sinh ngày 18-9-2015. Anh Nguyễn Hữu V không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị Dương Thúy L không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Về án phí: Chị Dương Thúy L phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0003982 ngày 06-4-2022. Chị L đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt Nguyên đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, riêng Bị đơn anh V vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 42/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:42/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về