Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 405/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 405/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hoà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 2233/2021/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 337/2022/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2022, quyết định hoãn phiên toà số 428/2022/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Vũ Thị O, sinh năm 1981.

Địa chỉ: Y6C, tổ 12, khu phố 4, phường H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Ông Trần Đức H, sinh năm 1976.

Địa chỉ: 133/60, khu phố 5, phường H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai. (Bà O, ông H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Vũ Thị O trình bày :

Bà và ông Trần Đức H tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật và được UBND xã Dũng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Phòng cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 49 ngày 13 tháng 3 năm 2000. Quá trình chung sống hạnh phúc, nhưng đến năm 2018 thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng không còn tôn trọng lẫn nhau. Bà và ông H đã nhiều lần tìm cách giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Nay bà nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà xin được ly hôn với ông H.

Về con chung: Quá trình chung sống có 02 con chung là cháu Trần Thị P, sinh ngày 20/12/2000, cháu Trần Thị Tuyết N, sinh ngày 22/5/2012. Ly hôn, cháu P đã trên 18 tuổi và sống tự lập, không yêu cầu Toà án giải quyết; bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu N, không yêu cầu ông H cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà xin Tòa án xét xử vắng mặt vì bận công việc.

* Bị đơn ông Trần Đức H đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng không có ý kiến, không đến Toà án để tham gia tố tụng.

* Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai, có yêu cầu giải quyết vắng mặt nên nguyên đơn thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt tại phiên toà, không có lời khai nên bị đơn không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Vũ Thị O.

Về con chung: Cháu Trần Thị P, sinh ngày 20/12/2000 đã trưởng thành, có khả năng lao động. Bà O không yêu cầu Toà án giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết. Giao cháu Trần Thị Tuyết N, sinh ngày 22/5/2012 cho bà O trực tiếp chăm sóc, giáo dục. Tạm thời ông H không phải cấp dưỡng nuôi cháu N.

Về tài sản chung: Bà O trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết; chưa lấy được ý kiến của ông H nên không xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Bà O trình bày không có, không yêu cầu Toà án giải quyết; chưa lấy được ý kiến của ông H nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Bà O chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bà Vũ Thị O xin ly hôn với ông Trần Đức H. Theo văn bản xác minh ngày 11/7/2022, thể hiện bị đơn ông H có đăng ký tạm trú và đang cư trú tại địa chỉ 133/60, khu phố 5, phường H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

Toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông H nhưng ông H không đến Toà án để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải, các phiên toà xét xử mà không có lý do; Bà O có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Điều 207, Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà O, ông H.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Vũ Thị O:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà O và ông H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đã được UBND xã Dũng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Phòng cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 49 ngày 13 tháng 3 năm 2000 nên được xem là hôn nhân hợp pháp theo Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986.

Theo trình bày của bà O thì thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng về quan điểm sống, thường xuyên xảy ra xung đột dẫn đến vợ chồng không còn tôn trọng lẫn nhau. Bà O và ông H đã nhiều lần tìm cách giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà O xin được ly hôn với ông H.

Tại biên bản xác minh ngày 15/7/2022, địa phương cung cấp không nắm được thông tin mâu thuẫn giữa bà O, ông H do bà O, ông H không trình báo với địa phương. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông H nhưng ông H vẫn không có ý kiến chứng tỏ ông H bỏ mặc, không mong muốn bảo vệ và duy trì hôn nhân với bà O. Xét thấy, mâu thuẫn giữa bà O, ông H đã lâm vào tình trạng trầm trọng. Ông H không có thiện chí hoặc biện pháp để hàn gắn gia đình, mục đích hôn nhân không đạt. Vì vậy, nay bà O xin ly hôn với ông H là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56, Điều 131 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.

[2.2] Về con chung:

Bà O và ông H có 02 con chung chị Trần Thị P, sinh ngày 20/12/2000 và cháu Trần Thị Tuyết Ni, sinh ngày 22/5/2012. Ly hôn, chị P đã trên 18 tuổi và có khả năng lao động, bà O không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Bà O yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu N, không yêu cầu ông H cấp dưỡng. Cháu N đã trên 07 tuổi, qua tham khảo nguyện vọng của cháu N, cháu có nguyện vọng được sống chung với bà O, do bà O trực tiếp chăm sóc giáo dục. Để đảm bảo cuộc sống ổn định của cháu N, nên chấp nhận yêu cầu của bà O, giao cháu N cho bà O trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Do bà O không yêu cầu cấp dưỡng nuôi cháu N nên tạm thời ông H không phải cấp dưỡng nuôi con. Ông H được quyền thăm nom con không ai cản trở.

Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về tài sản chung: Bà O trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết. Ông H chưa có ý kiến về vấn đề này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.4] Về nợ chung: Bà O trình bày không có, không yêu cầu Toà án giải quyết. Ông H chưa có ý kiến về vấn đề này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Bà O phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hoà phù hợp với chứng cứ đã thu thập, quy định của pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 207, khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Căn cứ Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986; Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83, 84 và Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Vũ Thị O. Bà Vũ Thị O được ly hôn với ông Trần Đức H.

2. Về con chung: Bà O và ông H có 02 con chung là chị Trần Thị P, sinh ngày 20/12/2000 và cháu Trần Thị Tuyết N, sinh ngày 22/5/2012. Chị P đã trưởng thành, có khả năng lao động nên không xem xét giải quyết. Giao cháu Trần Thị Tuyết N cho bà Vũ Thị O trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Tạm thời ông Trần Đức H không phải cấp dưỡng nuôi cháu Nhi. Ông H được quyền thăm nom con không ai cản trở. Vì quyền lợi của cháu N, khi cần thiết các bên được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Bà Vũ Thị O phải chịu 300.000đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà O đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0000772 ngày 20/12/2021 của Chi cục thi hành án O sự thành phố Biên Hoà.

5. Bà Vũ Thị O, ông Trần Đức H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

102
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 405/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:405/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về