Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 38/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 38/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 9 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 118/2022/TLST – HNGĐ, ngày 18/8/2022 về việc: Xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Theo Q định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2022/QĐXX – HNGĐ ngày 05/9/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Lò Thị B, sinh năm 1990. Nơi đăng ký HKTTvà chỗ ở hiện nay: Bản T, xã K, huyện M, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.

2. Bị đơn: Lường Văn Q, sinh năm 1996. Nơi đăng ký HKTT: Bản L1, xã P1, huyện L, tỉnh Sơn La. Hiện đang cai nghiện tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 18/8/2022 nguyên đơn chị Lò Thị B trình bày: Chị và anh Lường Văn Q kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện M vào tháng 9 năm 2016, sau khi kết hôn xong thì chị cùng anh Q về sống tại xã P1, huyện L, tỉnh Sơn La. Cuộc sống chung hạnh phúc được khoảng 03 năm thì nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị phát hiện anh Q sa vào nghiện chất ma túy, từ đó dẫn đến vợ chồng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên xảy ra cãi vã, xô xát và không tìm được tiếng nói chung, do quá chán nản đến năm 2020 thì chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại xã K, huyện M, tỉnh Sơn La để sinh sống đến nay, trong thời gian chị về sống tại xã K, huyện M anh Q vẫn đến gây rối và xảy ra xô xát với chị; hiện nay anh Q đã bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy huyện Sông Mã. Do vậy, chị thấy cuộc sống chung không thể tiếp tục, cuộc sống gia đình không đảm bảo, chị cũng thấy không còn tình cảm với anh Q nữa, hôn nhân không thể tiếp tục duy trì được nên có đơn khởi kiện xin được ly hôn với anh Lường Văn Q.

Về con chung: Trong thời gian chung sống anh chị có 01 con chung là Lường Đức V – sinh ngày 20/7/2017, nếu được ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con chung và không đề nghị anh Q phải cấp dưỡng nuôi con cùng.

Về tài sản chung, về nợ chung: Chị và anh Q không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải Q trong vụ án này.

Do bận công việc chị có đơn đề nghị được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án.

* Quá trình giải Q vụ án do anh Lường Văn Q đang bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La nên Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của anh Q, anh Q đã cho ý kiến bằng văn bản về yêu cầu khởi kiện của chị B như sau: Anh và chị B kết hôn và phát sinh mâu thuẫn đúng như chị B đã trình bày, nay chị B có yêu cầu xin được ly hôn anh không đồng ý, vì nguyên nhân mâu thuẫn là do anh nghiện ma túy, hiện nay anh đang được cai nghiện rồi, sau này anh cai nghiện xong sẽ làm lại cuộc sống mới. Về con chung anh xác nhận anh chị có 01 con chung là Lường Đức V – sinh ngày 20/7/2017, nếu ly hôn anh nhất trí để chị B trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung trong thời gian anh đang cai nghiện ma túy, sau khi cai nghiện xong nếu có nhu cầu nuôi con chung anh sẽ đề nghị sau, anh không cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị B. Về nợ chung và tài sản chung: anh và chị B không có tài sản chung và nợ chung gì, anh không đề nghị Tòa giải Q.

Do đang áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy huyện Sông Mã nên anh không thể có mặt tại Tòa án để giải Q việc ly hôn được vì vậy anh Q đã có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải và xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu quá trình kiểm sát việc thụ lý giải Q vụ án:

- Về tố tụng: Việc thụ lý xây dựng hồ sơ vụ án Tòa án huyện Sông Mã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hội đồng xét xử tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm xét xử đều thực hiện đúng quy định Bộ luật tố tụng Dân sự. Anh Q và chị B đều có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ vào Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt đối với anh Q, chị B là đúng quy định pháp luật.

- Về nội dung: Cần chấp nhận V bộ yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Lò Thị B, xử cho chị B được ly hôn anh Lường Văn Q. Giao cho chị Lò Thị B được quyền trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc con chung là Lường Đức V - sinh ngày 20/7/2017, anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị B. Về nợ chung, tài sản chung: không có, do các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải Q trong vụ án này. Chị Lò Thị B được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và đã được xem xét thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền và tố tụng: Vụ án theo đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Lò Thị B có hộ khẩu thường trú tại bản L1, xã P1, huyện L, tỉnh Sơn La đối với anh Lường Văn Q có đăng ký hộ khẩu thường trú tại huyện L, tỉnh Sơn La; quá trình giải Q vụ án cho thấy anh Q không có nơi cứ trú ổn định, thường xuyên đi lang thang và đến ngày 13/7/2022 bị Tòa án nhân dân huyện Sông Mã áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy huyện Sông Mã theo Q định số 64/QĐ - TA ngày 13/7/2022, do vậy xác định nơi cư trú hiện nay của anh Q là huyện Sông Mã. Trong thời gian giải Q vụ án chị B cũng đã chuyển hộ khẩu thường trú về huyện Sông Mã; chị B và anh Q đã có văn bản thỏa thuận lựa chọn Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La là Tòa án giải Q việc ly hôn. Do vậy, xác định vụ án được Tòa án nhân dân huyện Sông Mã thụ lý và giải Q là theo đúng quy định tại Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Về sự vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn: Sau khi chị B có đơn khởi kiện xin ly hôn Tòa án đã thụ lý và tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án cho anh Lường Văn Q, anh Q đã có ý kiến bằng văn bản về việc xin ly hôn của chị B, nhưng anh Q đang bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy nên anh không thể có mặt tại Tòa án để giải Q việc ly hôn được. Anh Lường Văn Q và chị Lò Thị B đều có đơn xin giải Q vắng mặt, Tòa án giải Q theo thủ tục chung và Q định đưa vụ án ra xét xử là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lò Thị B và anh Lường Văn Q chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện M vào ngày 14/9/2016 là đúng quy định của pháp luật. Căn cứ vào khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình xác định đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Qua các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án cho thấy mâu thuẫn gia đình giữa chị B và anh Q xuất phát từ tính tình không hợp nhau, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, xô xát và đỉnh điểm là việc anh Q sa vào nghiện chất ma túy, không thể cùng nhau vun vén, xây dựng cuộc sống gia đình, dẫn đến gia đình không hạnh phúc, bản thân chị B và anh Q đã sống ly thân một thời gian dài. Xét mâu thuẫn đã kéo dài, tình cảm vợ chồng đã hết, mục đích của hôn nhân không đạt được. Việc Q định cho chị B ly hôn anh Q là cần thiết để tạo điều kiện cho các đương sự xây dựng cuộc sống mới, có căn cứ và phù hợp với các quy định tại Điều 56, 57 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Trong quá trình chung sống chị B và anh Q đều thừa nhận có 01 con chung là Lường Đức V - sinh ngày 20/7/2017, chị B có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Q phải trợ cấp nuôi con cùng, anh Q cũng nhất trí để chị B trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc các con chung vì anh đang phải cai nghiện bắt buộc một thời gian dài không có điều kiện nuôi dưỡng con và không thể cấp dưỡng nuôi con cùng chị B được. Do vậy, cần giao con chung cho chị B trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng, điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của các đương sự và tình hình thực tế.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Do chị B và anh Q đều khai không có nợ chung và tài sản chung, cả anh chị đều không yêu cầu Tòa án giải Q nên không đặt vấn đề giải Q trong vụ án này.

[5] Về án phí: Chị Lò Thị B là người dân tộc thiểu số sống tại xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn xin được miễn án phí được Tòa án chấp thuận nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm theo quy định chung.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a, b khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 47; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình;

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn, xin nuôi con chung của chị Lò Thị B đối với anh Lường Văn Q.

- Xử cho chị Lò Thị B được ly hôn anh Lường Văn Q.

- Giao con chung là Lường Đức V - sinh ngày 20/7/2017 cho chị Lò Thị B trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Anh Lường Văn Q không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị Lò Thị B. Anh Q có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản, không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

2. Về án phí: Chị Lò Thị B được miễn án phí xin ly hôn.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Lò Thị B, anh Lường Văn Q được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 38/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:38/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về