Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 345/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 345/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/10/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 19 tháng 10 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 27/2021/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 185/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Bà Lê Thị L, sinh năm 1982; nơi cư trú: Tổ 3, ấp H, xã Đ, huyện C, tỉnh An Giang (có mặt)

-Bị đơn: Ông Mai H, sinh năm 1980; nơi cư trú: Tổ 3, ấp H, xã Đ, huyện C, tỉnh An Giang (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn bà Lê Thị L trình bày:

Bà với ông Mai H sống chung từ năm 1999 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện C, An Giang ngày 19/11/2002. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, cách nay khoảng 3 đến 4 năm, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống. Ông H trọng nam khinh nữ, thường xuyên nhậu say về đánh bà, không tôn trọng bà, không quan tâm chăm sóc vợ con. Sự việc mâu thuẫn xảy ra nhiều lần từ đó cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, hiện nay đã không chung sống với nhau. Nay bà yêu cầu được ly hôn với ông Mai H.

Về con chung: Bà với ông H có 04 con chung tên Mai Thiên N sinh năm 1999, Mai Thúy V sinh năm 2005, Mai Thu T sinh năm 2011 và Mai Huỳnh N sinh năm 2013. Sau khi ly hôn bà L yêu cầu được nuôi 03 con chung Mai Thúy V sinh năm 2005, Mai Thu T sinh năm 2011 và Mai Huỳnh N sinh năm 2013; đối với con chung tên Mai Thiên N đã trưởng thành, tự lao động được. Bà không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Mai H trình bày:

Ông thống nhất với thời gian sống chung và đăng ký kết hôn như bà Lê Thị L trình bày. Quá trình sống chung nguyên nhân do ông uống rượu say nên có những lời lẽ, hành động làm cho vợ buồn, xúc phạm vợ. Từ đó, đã làm cho vợ chồng không hạnh phúc, mâu thuẫn kéo dài. Vợ chồng đã không sống chung với nhau đã 11 tháng. Ông đã xin lỗi và cố gắng hàn gắn nhưng vợ ông chưa đồng ý. Nay vợ ông yêu cầu ly hôn, ông không đồng ý vì ông còn yêu thương vợ, muốn hàn gắn cuộc sống gia đình.

Về con chung: Ông với bà L có 04 con chung tên Mai Thiên N sinh năm 1999, Mai Thúy V sinh năm 2005, Mai Thu T sinh năm 2011 và Mai Huỳnh N sinh năm 2013. Sau khi ly hôn, ông yêu cầu được nuôi 03 con chung Mai Thúy V sinh năm 2005, Mai Thu T sinh năm 2011 và Mai Huỳnh N sinh năm 2013; đối với con chung tên Mai Thiên N đã trưởng thành, tự lao động được. Ông không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại phiên toà:

Bà L giữ yêu cầu được ly hôn với ông H. Ông H không đồng ý ly hôn.

Bà L và ông H thỏa thuận giao con chung tên Mai Thúy V sinh ngày 05/01/2005 và Mai Thu T sinh ngày 20/5/2011 hiện nay đang sống với bà L cho bà L trực tiếp nuôi; Giao con chung Mai Huỳnh N sinh ngày 24/4/2013 hiện nay đang sống với ông H cho ông H trực tiếp nuôi. Đối với Mai Thiên N sinh năm 1999 đã trưởng thành, có khả năng tự lao động nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Bà L và ông H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Bà L với ông H không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú phát biểu quan điểm:

Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình và có mặt tại phiên tòa.

Về nội dung:

Bà L với ông H có đăng ký kết hôn nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ chồng. Mâu thuẫn vợ chồng bà L ông H phát sinh từ hai bên. Nguyên nhân do ông H thường xuyên nhậu, có hành vi bạo lực gia đình, không tôn trọng bà L, không quan tâm chăm sóc gia đình. Bà L không còn tình cảm với ông H, không muốn tiếp tục cuộc sống hôn nhân, kiên quyết yêu cầu ly hôn. Tòa án đã hòa giải nhưng không thành. Như vậy, Hôn nhân giữa bà L và ông H lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Đề nghị, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L, cho ly hôn giữa bà L với ông H.

Về con chung bà L và ông H thống nhất giao con chung tên Mai Thúy V sinh ngày 05/01/2005 và Mai Thu T sinh ngày 20/5/2011 hiện nay đang sống với bà L cho bà L trực tiếp nuôi; Giao con chung Mai Huỳnh N sinh ngày 24/4/2013 hiện nay đang sống với ông H cho ông H trực tiếp nuôi. Sự thỏa thuận này của bà L với ông H phù hợp với nguyện vọng của các cháu. Đề nghị, Hội đồng xét xử giao cháu V và T cho bà L trực tiếp nuôi, giao cháu N cho ông H trực tiếp nuôi để ổn định cuộc sống và sự phát triển tâm lý của các cháu.

Bà L với ông H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng

Bà Lê Thị L khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Mai H cư trú tại xã Đ, huyện C, tỉnh An Giang. Bà L với ông H có yêu cầu Tòa án giải quyết về nuôi con chung sau ly hôn. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện Châu Phú thụ lý quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” và giải quyết vụ án là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án [2.1] Bà Lê Thị L và ông Mai H tự nguyện chung sống với nhau. Tại Giấy chứng nhận kết hôn số 331 ngày 19/11/2002 của Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện C, tỉnh An Giang thể hiện bà L với ông H đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Đ chứng nhận kết hôn. Vậy, Bà Lê Thị L và ông Mai H có xác lập quan hệ vợ chồng. Quá trình chung sống bà L và ông H phát sinh mâu thuẫn nên bà L khởi kiện yêu cầu ly hôn.

Bà L và ông H có 04 con chung tên Mai Thiên N sinh năm 1999 đã trưởng thành, tự lao động nuôi bản thân được, Mai Thúy V sinh ngày 05/01/2005 và Mai Thu T sinh ngày 20/5/2011 hiện nay đang do bà L trực tiếp nuôi, Mai Huỳnh N sinh ngày 24/4/2013 hiện nay đang do ông H trực tiếp nuôi.

[2.2] Tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau. Trong quá trình chung sống bà L và ông H đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, ông H không tôn trọng bà L, thường hay uống rượu về có hành vi bạo lực gia đình với bà L. Từ đó, Bà L không còn tình cảm với ông H, không thể tiếp tục sống chung và kiên quyết yêu cầu được ly hôn. Vợ chồng bà L ông H không quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; cuộc sống gia đình không hạnh phúc, không sống chung với nhau. Tòa án đã hòa giải nhưng không thành. Như vậy, Giữa bà L với ông H đã có sự vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Bà L khởi kiện yêu cầu ly hôn là có căn cứ nên được chấp nhận. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cho ly hôn giữa bà L với ông H.

[2.3] Quá trình giải quyết vụ án bà L với ông H không thỏa thuận được về người trực tiếp nuôi con nhưng tại phiên tòa bà L với ông H đã thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, không yêu cầu mỗi bên cấp dưỡng nuôi con. Sự thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con của bà L với ông H phù hợp với nguyện vọng của các con chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giao con chung Mai Thúy V sinh ngày 05/01/2005 và Mai Thu T sinh ngày 20/5/2011 hiện nay đang do bà L nuôi cho bà L trực tiếp nuôi; giao con chung Mai Huỳnh N sinh ngày 24/4/2013 hiện nay đang do ông H nuôi cho ông H trực tiếp nuôi. Bà L với ông H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con và con chung tên Mai Thiên N sinh năm 1999 đã trưởng thành, có khả năng tự lao động nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được pháp luật quy định thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi về cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

[2.4] Bà L và ông H không yêu cầu giải quyết về nợ chung và tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Trường hợp nếu có tranh chấp L quan đến tài sản chung hoặc nợ chung thì sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật.

[3] Về án phí: Do bà Lê Thị L là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 235 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử: Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Lê Thị L và ông Mai H.

Về con chung:

Giao con chung tên Mai Thúy V sinh ngày 05/01/2005 và Mai Thu T sinh ngày 20/5/2011 (hiện nay đang do bà Lê Thị L nuôi) cho bà Lê Thị L trực tiếp nuôi; Giao con chung tên Mai Huỳnh N sinh ngày 24/4/2013 (hiện nay đang do ông Mai H nuôi) cho ông Mai H trực tiếp nuôi.

Con chung tên Mai Thiên N sinh năm 1999 đã trưởng thành, có khả năng tự lao động; Bà L với ông H không yêu cầu mỗi bên cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được pháp luật quy định thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi về cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Bà Lê Thị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, được trừ 300.000đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0008617 ngày 18 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.

Thời hạn kháng cáo đối với bản án của các đương sự có mặt tại phiên tòa là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 345/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:345/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về