Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 34/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 34/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 19 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 160/2022/TLST - HNGĐ ngày 06 tháng 7 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 15/2022/QĐST - HNGĐ ngày 08 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn : Chị Phạm Thị T, sinh năm 1998; nơi ĐKHKTT: Thôn An T, xã Nguyên G, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương; nơi cư trú: Thôn Gia L, xã Văn T, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương.

Bị đơn: Anh Phan Trọng S, sinh năm 1996; Nơi cư trú: Thôn An T, xã Nguyên G, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương.

(Chị T, anh S đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn chị Phạm Thị T trình bày: Chị và anh Phan Trọng S kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, được UBND xã Nguyên Giáp, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương tổ chức đăng ký và cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 03/8/2018. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng anh chị vui vẻ, hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, không thống nhất được trong cách làm ăn cũng như sinh hoạt hàng ngày, anh S chơi bời tụ tập bạn bè, rượu chè, cờ bạc, lô đề, không quan tâm chăm lo gì cho gia đình, chị đã nhiều lần phải trả nợ cho anh, mặc dù đã được gia đình khuyên bảo nhưng anh không thay đổi, chị không chịu đựng được đã về nhà bố mẹ đẻ ở Gia Lộc, Văn Tố, Tứ Kỳ sinh sống từ tháng 6/2022 đến nay, vợ chồng sống ly thân không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị khởi kiện xin ly hôn anh S.

Về con chung : Chị và anh S có 01 con chung là Phan Thị Hồng A, sinh ngày 18/9/2019, hiện cháu đang sống cùng với chị. Khi ly hôn chị có nguyện vọng muốn được nuôi con và tự nguyện không yêu cầu anh S phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai bị đơn là anh Phan Trọng S trình bày: Về điều kiện kết hôn đúng như chị T trình bày, nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn do tính cách hai người không hợp nhau, không có tiếng nói chung, mặt khác một phần do anh mải chơi, bị bạn bè lôi kéo, bỏ bê gia đình dẫn đến nợ nần, anh cũng đã được gia đình khuyên bảo nhưng chưa thay đổi. Tháng 6/2022 chị T đã bế con bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở Gia Lộc, Văn Tố, Tứ Kỳ sinh sống và từ đó đến nay anh chị sống ly thân không ai quan tâm đến ai. Nay anh xác định nếu chị T kiên quyết xin ly hôn anh cũng đồng ý.

Về con chung: Anh S và chị T có một con chung là cháu Phan Thị Hồng A, sinh ngày 18/9/2019, hiện cháu đang sống cùng với chị T. Quan điểm của anh, nếu Tòa án giải quyết cho chị T ly hôn anh đồng ý để chị T nuôi con.

Về tài sản chung: Anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Kết quả xác minh tại Uỷ ban nhân dân xã Nguyên giáp xác định: Chị Phạm Thị T và anh Phan Trọng S kết hôn với nhau hoàn toàn tự nguyện, được UBND xã Nguyên Giáp cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 03/8/2018. Sau khi kết hôn, anh chị sinh sống tại quê Nguyên Giáp. Cuộc sống vợ chồng vui vẻ hạnh phúc được thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân một phần do anh S có chút chơi bời, làm ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, mặc dù đã được gia đình khuyên bảo nhưng anh không thay đổi. Chị đã về quê mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng sống ly thân không ai quan tâm đến ai. Theo quan điểm của địa phương đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật để anh chị sớm ổn định cuộc sống. Hiện tại anh S, chị T có một con chung là cháu Phan Thị Hồng A, sinh ngày 18/9/2019, hiện nay cháu đang ở cùng với chị T, theo quan điểm của địa phương hiện anh S và chị T đều đi làm công ty có thu nhập đủ điều kiện để nuôi con nhưng vì cháu Anh còn nhỏ nên giao con cho chị T nuôi dưỡng là phù hợp.

Tại phiên tòa chị T, anh S vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương có quan điểm xác định việc Tòa án thụ lý, giải quyết yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị T là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng theo quy định tại các điều 70, 71, 72 của BLTTDS; Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng các điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí toà án. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Phạm Thị T xử cho chị Phạm Thị T được ly hôn anh Phan Trọng S; Về con chung: Giao cho chị Phạm Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con Phan Thị Hồng A, sinh ngày 18/9/2019 cho đến khi con đủ 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh S phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Về án phí: Chị T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử thấy:

[1] Về tố tụng: Chị Phạm Thị T khởi kiện ly hôn anh Phan Trọng S; nơi cư trú tại xã Nguyên Giáp, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.

Tại phiên tòa nguyên đơn, bị đơn, đã được triệu tập hợp lệ, chị T, anh S đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt các đương sự tại phiên tòa.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị T và anh Phan Trọng S kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Nguyên Giáp, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương ngày 03/8/2018. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh S là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ lời khai của chị T, lời khai của anh S, kết quả xác minh tại địa phương, xác định nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng, do tính cách hai người không hợp nhau, không có tiếng nói chung, do anh mải chơi, bị bạn bè lôi kéo, chơi lô đề, cờ bạc, bỏ bê gia đình dẫn đến nợ nần, mặc dù đã được gia đình khuyên bảo nhưng anh không thay đổi. Tháng 6/2022 chị không chịu đựng được đã bế con về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng đã sống ly thân từ đó đến nay, cả hai không quan tâm đến nhau và anh, chị cũng không có biện pháp gì để cải thiện mối quan hệ vợ chồng. Mặc dù anh mong muốn vợ chồng về đoàn tụ nhưng từ khi Tòa án thụ lý giải quyết vụ án cho đến nay anh cũng chưa có biện pháp gì để cải thiện tình cảm vợ chồng. Từ những căn cứ trên Hội đồng xét xử xét thấy thực tế tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh S đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ các điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị T ly hôn anh S là phù hợp.

[3] Về con chung: Chị T và anh S có 01 con chung là Phan Thị Hồng A, sinh ngày 18/9/2019, hiện nay cháu đang ở với chị T. Khi ly hôn chị T đề nghị được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh S phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu Hồng Anh mới 36 tháng tuổi, chị T có nguyện vọng muốn được nuôi con và tự nguyện không yêu cầu anh S phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung: Chị T, anh S không yêu cầu giải quyết. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị T khởi kiện xin ly hôn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị T; Xử cho chị Phạm Thị T ly hôn anh Phan Trọng S.

2. Về con chung: Giao cho chị Phạm Thị T tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con Phan Thị Hồng A, sinh ngày 18/9/2019 đến khi con đủ 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh S phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Anh Phan Trọng S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sơ thẩm (Hôn nhân gia đình) được đối trừ số tiền chị đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số AA/2020/0004544 ngày 06/7/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

89
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 34/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:34/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về