Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 33/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SM, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 33/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

  Ngày 09 tháng 09 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 112/2022/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 06 năm 2022 về việc: Xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2022/QĐXX-ST, ngày 19 tháng 08 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Quàng Thị N, sinh năm 1988. Địa chỉ: Bản L, xã L2,  huyện C, tỉnh Sơn La. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Lò Văn T, sinh năm 1989. Địa chỉ: Bản H, xã P, huyện S,  tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn đề ngày 08/5/2022 và bản tự khai đề ngày 08/05/2022  nguyên đơn chị Quàng Thị N trình bày:

- Chị và anh Lò Văn T sau một thời gian tìm hiểu rồi kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Mường Lạn, huyện SC, tỉnh Sơn La vào ngày 23/07/2014 và được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán của địa phương. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hòa T, hạnh phúc được thời gian là 03 năm sảy ra mâu thuẫn; nguyên nhân do trong quá trình chung sống tính tình không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung trong cuộc sống gia đình, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trở nên trầm trọng khi vào năm 2019 anh Lò Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và bị kết án phạt tù với thời hạn là 03 năm, đến ngày 06/4/2022 thì  thi hành án xong và trở về địa phương. Tuy nhiên, đến nay chị N thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục cuộc hôn nhân với anh T được nữa nên chị đề nghị xin được ly hôn.

- Về con chung: Quá trình chung sống chị và anh T có 01 con chung là B, sinh ngày 06/06/2015. Nếu ly hôn chị N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không đề nghị Tòa giải quyết. Bị đơn anh Lò Văn T trình bày tại bản tự khai, biên bản phiên hòa giải và  tại phiên tòa như sau: Anh đồng ý với các nội dung về quan hệ hôn nhân, mâu  thuẫn vợ chồng đúng như chị N đã trình bày. Tuy nhiên, với yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị N anh không nhất trí vì anh vẫn còn tình cảm với chị N và mong muốn được hàn gắn, anh cho rằng việc anh phạm tội về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và bị kết án phạt tù 03 năm thì anh chỉ vi phạm pháp luật chứ không có lỗi gì với vợ con và quan hệ hôn nhân của mình.

- Về con chung: anh xác định anh và chị N có 01 con chung là B, sinh ngày  06/06/2015 nếu ly hôn thì anh nhất trí để chị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung, anh không cấp dưỡng nuôi con cùng chị N, và đề nghị Tòa xác định mặc dù chị N được trực tiếp nuôi dưỡng con nhưng con vẫn là con chung của anh và chị N, anh vẫn có quyền được thăm nom, chăm sóc, giáo dục con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Anh cũng xác nhận giữa anh và chị N không có tài sản chung và nợ chung gì nên không có đề nghị Tòa giải quyết vấn đề này. Tuy tại bản tự khai và biên bản phiên hòa giải anh có yêu cầu nếu ly hôn thì chị N phải trả lại cho anh tiền tổ chức đám cưới và các tài sản là lễ vật khi tiến hành làm đám cưới dù là nhỏ nhất từ cái kim đến sợi chỉ nhưng tại phiên tòa anh rút đề nghị này và không có yêu cầu gì khác.

Tại phiên Tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện SM phát biểu quan điểm nội dung vụ án:

- Về tố tụng: Việc thụ lý xây dựng hồ sơ vụ án Tòa án huyện SM tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hội đồng xét xử tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm xét xử đều thực hiện đúng quy định Bộ luật tố tụng Dân sự.

- Về nội dung: Cần chấp nhận toàn bộ yêu cầu theo đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Quàng Thị N, xử cho chị N được ly hôn anh Lò Văn T. Giao cho chị N được quyền nuôi dưỡng và chăm sóc các con chung là B, sinh ngày 06/06/2015; anh T không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị N. Chị N và anh T đều nhất trí là anh chị không có nợ chung, tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết  nên không xem xét giải quyết trong vụ án này. Chị N phải nộp án phí xin ly hôn theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên tài liệu hồ sơ vụ án, kết quả tại biên bản tiến hành hòa giải các chứng cứ đã thu thập. Hội đồng xét xử nhận thấy;

[1] Về thẩm quyền tố tụng: Nguyên đơn chị Quàng Thị N có hộ khảu thường trú tại huyện SC, tỉnh Sơn La nhưng bị đơn Lò Văn T có hộ khẩu thường trú tại huyện SM, tỉnh Sơn La nên được Tòa án nhân dân huyện SM, tỉnh Sơn La thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền và đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng Dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Quàng Thị N kết hôn với anh Lò Văn T trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Mường Lạn, huyện SC, tỉnh Sơn La vào ngày 23/07/2014 là đúng quy định của pháp luật. Căn cứ vào khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình xác định đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.

Qua các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ và tại phiên tòa cho thấy mâu thuẫn gia đình giữa chị N và anh T đã kéo dài, cuộc sống chung không hạnh phúc và bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn gia đình đỉnh điểm xuất phát từ việc anh T sử dụng trái phép chất ma túy, sau đó có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị kết án phạt tù và phải đi thi hành án trong một thời gian dài nên cuộc sống chung không đảm bảo, không thể cùng nhau vun vén, xây dựng cuộc sống gia đình, dẫn đến gia đình không hạnh phúc. Sau khi anh T đi chấp hành án về có mong muốn được hàn gắn tình cảm, xây dựng lại gia đình nhưng chị N xác định không còn tình cảm với anh T và cương quyết xin được ly hôn. Xét mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng và đã sống ly thân một thời gian dài, tình cảm vợ chồng và cuộc sống chung không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được. Việc quyết định cho chị N ly hôn anh T là có căn cứ, phù hợp với Điều 56, 57 của Luật hôn nhân và gia đình 2014.

[3] Về con chung: Trong quá trình chung sống chị N và anh T đều thừa nhận có 01 con chung là B, sinh ngày 06/6/2015. Chị N có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh T phải trợ cấp nuôi con cùng, anh T cũng nhất trí để chị N trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc con chung, anh không cấp dưỡng nuôi con cùng chị N. Bên cạnh đó, kể từ khi anh T đi chấp hành án phạt tù thì con chung vẫn luôn do chị N trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc; do vậy, để đảm bảo mọi quyền lợi cho con chung, để cháu có thể phát triển tốt nhất cần chấp nhận yêu cầu của chị N là tiếp tục để con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của Pháp luật, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị N, điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của con chung. Anh T có quyền đi lại  thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở tuy nhiên cũng không được lạm dụng việc thăm nom con chung để gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con và ảnh hưởng đến cuộc sống của người còn lại theo đúng quy định tại các Điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Quàng Thị N và anh Lò Văn T đều nhất trí quá trình chung sống không có tài sản chung và nợ chung nên không đề nghị Tòa xem xét giải quyết, do vậy HĐXX không đặt vấn đề giải quyết về tài sản chung và nợ chung của đương sự.

[5] Về án phí: Chị Quàng Thị N phải chịu án phí xin ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;

khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14  ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn, xin nuôi con chung của chị Quàng Thị N đối với anh Lò Văn T.

- Xử cho chị Quàng Thị N được ly hôn anh Lò Văn T.

- Giao con chung là B, sinh ngày 06/06/2015 cho chị Quàng Thị N trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Anh Lò Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Quàng Thị N. Anh Lò Văn T có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.

2. Về án phí: Chị Quàng Thị N phải chịu án phí xin ly hôn là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số AA/2021/0001701 ngày 09/06/2022 tại Chi cục thi hành án huyện SM, tỉnh Sơn La. Chị N đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 09/09/2022).

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

82
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 33/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về