Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 33/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 33/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 7 năm 2022 tại phòng xử án - trụ sở Toà án nhân dân huyện Krông Pắc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 128/2022/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2022/QĐXX- ST ngày 30 tháng 5 năm 2022 và quyết định hoãn phiên toà số 21/QĐST-HNGĐ ngày 16/6/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hà Thị Ng, sinh năm 1990- Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Trú tại: Buôn CK (trước đây là thôn TS), xã VB, huyện KP, tỉnh Đắk Lắk.

Bị đơn: Anh Hứa Đình Th, sinh năm 1988-Vắng mặt.

Trú tại: Buôn CK (trước đây là thôn TS), xã VB, huyện KP, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản không tiến hành hòa giải được và đơn xin xét xử vắng mặt nguyên đơn chị Hà Thị Ng trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị Ng và anh Hứa Đình Th đến với nhau trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán của địa phương và đăng ký kết hôn tại UBND xã VB, huyện KP, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 25/3/2009. Sau khi về chung sống thì vợ chồng hạnh phúc được một thời gian ngắn, sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do cuộc sống chung của vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, nên hiện nay không còn tình cảm yêu thương, chăm sóc nhau nữa.

Xét thấy, tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được.

Nguyện vọng của chị Hà Thị Ng xin được ly hôn với anh Hứa Đình Th.

Về con chung: Chị Hà Thị Ng và anh Hứa Đình Th có 02 con chung: cháu Hứa Đình H, sinh ngày 07/6/2008 và cháu Hứa Thị Trà M, sinh ngày 25/8/2010. Chị Hà Thị Ng có nguyện vọng sau khi ly hôn giao cháu Hứa Đình H và cháu Hứa Thị Trà M cho anh Hứa Đình Th nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho tới lúc các cháu tròn 18 tuổi.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

*Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Hứa Đình Th không đến tòa làm việc để trình bày ý kiến của mình về đơn khởi kiện của chị Hà Thị Ng.

* Quá trình giải quyết vụ án bà Nông Thị H (mẹ đẻ của anh Hứa Đình Th) trình bày: Tôi là mẹ của Hứa Đình Th và Hà Thị Ng là con dâu của tôi. Hiện nay anh Th và chị Ng không còn chung sống với nhau nữa và anh chị cũng đi làm ăn xa, thỉnh thoảng mới về nhà. Mỗi lần tòa xuống tống đạt văn bản tố tụng và làm việc với anh Th thì không gặp được, nên bà Nông Thị H nhận thay và cam kết giao lại cho anh Hứa Đình Th. Bà Nông Thị H cho rằng việc anh Th không lên Tòa giải quyết ly hôn với chị Ng được là do anh Th đi làm ít có thời gian, cuối tuần mới được nghỉ tranh thủ về thăm các con (H và M) thì ngày nghỉ Tòa không làm việc, nên không thể lên Tòa trình bày ý kiến đối với đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Hà Thị Ng. Chị Ng có nguyện vọng sau khi ly hôn giao con cho anh Th nuôi là phù hợp, bởi vì, chị Ng hiện nay ra đi hai bàn tay trắng, không có nhà cửa, công việc ổn định nên không thể nuôi con được, còn anh Hứa Đình Th thì có nguyện vọng nuôi cháu H và M, bà Nông Thị H và ông Hứa Đình N là ông bà nội của hai cháu Hứa Đình H và cháu Hứa Thị Trà M, ông bà sẽ phụ giúp anh Th để nuôi hai cháu H và M phát triển toàn diện về mọi mặt.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và nội dung vụ án:

-Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử thẩm phán chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Hà Thị Ng được ly hôn với anh Hứa Đình Th và giao cháu Hứa Đình H, sinh ngày 07/6/2008 và cháu Hứa Thị Trà M, sinh ngày 25/8/2010 cho anh Hứa Đình Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục cho đến lúc các cháu tròn 18 tuổi. Về tài sản chung và nợ chung: chị Hà Thị Ng không yêu cầu, đề nghị HĐXX không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu đã có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền:

Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ vào đơn khởi kiện của chị Hà Thị Ng đề ngày 15/3/2022, Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc xác định quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của BLTTDS.

Về thẩm quyền: Tại thời điểm chị Hà Thị Ng làm đơn khởi kiện, bị đơn anh Hứa Đình Th, cư trú tại Buôn CK (trước đây là thôn TS), xã VB, huyện KP, tỉnh Đắk Lắk. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc áp dụng điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[2] Về chấp hành quy định pháp luật: Sau khi thụ lý vụ án, do không tống đạt trực tiếp được cho anh Hứa Đình Th, Toà án đã giao cho người thân thích là bà Nông Thị H và ông Hứa Đình N (bố mẹ đẻ anh Hứa Đình Th), có cùng nơi cư trú với anh Hứa Đình Th, bà H và ông N cam kết sẽ giao lại cho anh Th là đảm bảo việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng theo quy định tại khoản 5 Điều 177 BLTTDS. Tuy nhiên, anh Hứa Đình Th không tham gia tố tụng cũng như không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các phiên hoà giải là từ bỏ quyền và không thực hiện nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa lần thứ nhất anh Hứa Đình Th vắng mặt, nên HĐXX đã hoãn phiên tòa và tống đạt quyết định hoãn phiên tòa cho anh Hứa Đình Th. Tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh Hứa Đình Th vắng mặt không có lý do, nguyên đơn chị Hà Thị Ng có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy, HĐXX áp dụng Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, để xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đảm bảo đúng quy định pháp luật.

[4] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị Ng và anh Hứa Đình Th chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện. Có đăng ký kết hôn ngày 25/3/2009 tại Ủy ban nhân dân xã VB, huyện KP, tỉnh Đắk Lắk, đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống, vợ chồng có 02 con chung là cháu Hứa Đình H, sinh ngày 07/6/2008 và cháu Hứa Thị Trà M, sinh ngày 25/8/2010. Sau một thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do quan điểm sống bất đồng nên anh chị đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2021 cho đến nay. Quá trình tham gia tố tụng chị Hà Thị Ng xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn. Anh Hứa Đình Th không có mặt tại Tòa án để trình bày quan điểm của mình.

Kết quả xác minh, chính quyền địa phương cung cấp: Anh Th và chị Ng có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật và có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán của địa phương. Sau khi về chung sống một thời gian thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh Th không chăm lo kinh tế trong gia đình, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, hay xô xát, cãi vã nhau, mâu thuẫn vợ chồng ngày một trầm trọng. Nay chị Ng làm đơn xin ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Ngoài ra tại biên bản tự khai ngày 18/5/2022 bà Nông Thị H (mẹ đẻ anh Hứa Đình Th) cung cấp: Hiện nay vợ chồng anh Th và chị Ng mâu thuẫn trầm trọng, anh Th và chị Ng không còn chung sống với nhau nữa.

Tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình quy định:

“Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.” Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa chị Hà Thị Ng và anh Hứa Đình Th đã đến mức trầm trọng, vợ chồng sống ly thân từ tháng 3 năm 2021 cho tới nay mà không có biện pháp hàn gắn hạnh phúc gia đình, chị Hà Thị Ng xác định tình cảm không còn và kiên quyết xin ly hôn. Còn anh Hứa Đình Th mặc dù đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng không lên tòa trình bày ý kiến.

Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị Hà Thị Ng và anh Hứa Đình Th không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận đơn khởi kiện của chị Hà Thị Ng, cho chị Hà Thị Ng được ly hôn với anh Hứa Đình Th.

Về con chung: Trong quá trình chung sống chị Hà Thị Ng và anh Hứa Đình Th có 2 con chung là cháu Hứa Đình H, sinh ngày 07/6/2008 và cháu Hứa Thị Trà M, sinh ngày 25/8/2010. Chị Ng có nguyện vọng sau khi ly hôn thì giao hai người con chung cho anh Hứa Đình Th nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục vì sau khi ly hôn chị không có nhà cửa và công việc ổn định, nên không thể trực tiếp nuôi dưỡng các con chung và hiện nay cháu H và cháu M cũng đã trên 07 tuổi các cháu đều có nguyện vọng ở với bố Hứa Đình Th, ngoài ra bà Nông Thị H mà bà nội của cháu H và cháu M cũng có nguyện vọng sau khi anh Th và chị Ng ly hôn, thì đề nghị Tòa án giao cháu H và cháu M cho anh Th nuôi, ông bà nội sẽ phụ giúp anh Th chăm lo các cháu những lúc anh Th vắng nhà. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao cháu Hứa Đình H, sinh ngày 07/6/2008 và cháu Hứa Thị Trà M, sinh ngày 25/8/2010 cho anh Hứa Đình Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi các cháu đủ tuổi trưởng thành. Chị Hà Thị Ng được quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai có quyền cản trở. Tuy nhiên, không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Hứa Đình Th không yêu cầu chị Hà Thị Ng cấp dưỡng tiền nuôi các con chung, nên HĐXX không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án chị Hà Thị Ng không yêu cầu, nên HĐXX không đề cập xem xét.

[5] Về án phí: Chị Hà Thị Ng là người đồng bào dân tộc thiểu số (dân tộc Mường), sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, căn cứ theo quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Miễn toàn bộ án phí hôn nhân và gia đình cho chị Hà Thị Ng.

Xét thấy quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa là phù hợp, HĐXX cần chấp nhận ý kiến của Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Hà Thị Ng được ly hôn với anh Hứa Đình Th.

Về con chung: Giao cháu Hứa Đình H, sinh ngày 07/6/2008 và cháu Hứa Thị Trà M, sinh ngày 25/8/2010 cho anh Hứa Đình Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến lúc các cháu tròn 18 tuổi.

Chi Hà Thị Ng được quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai có quyền cản trở. Tuy nhiên, chị Hà Thị Ng không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có quyền thay đổi việc nuôi con chung và cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Hứa Đình Th không yêu cầu chị Hà Thị Ng cấp dưỡng tiền nuôi các con chung, nên HĐXX không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Hà Thị Ng không yêu cầu, nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

Về án phí: Miễn toàn bộ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm cho chị Hà Thị Ng.

Nguyên đơn chị Hà Thị Ng, bị đơn anh Hứa Đình Th được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 luật thi hành án dân sự, Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 33/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về