Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 33/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 33/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 04 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 66/2022/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2022 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Thạch Thị N, sinh năm 1992; địa chỉ: ấp T, xã Đ, huyện T, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vắng mặt).

Bị đơn: Ông Thạch U, sinh năm 1990; địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn ngày 02/3/2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bà Thạch Thị N trình bày:

Vào năm 2012, bà và ông Thạch U kết hôn với nhau, kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện T, tỉnh Sóc Trăng theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn, bà và ông U sống hạnh phúc thì phát sinh mâu thuẫn, đã ly thân từ tháng 08/2012 cho đến nay. Nay bà yêu cầu được ly hôn với ông Thạch U. Trong quá trình chung sống, bà và ông U có 01 người con chung tên Thạch Thị Ngọc D, sinh ngày 25/02/2013 và bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu D, không yêu cầu ông U phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Xác định đúng quan hệ tranh chấp. Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35;

khoản 4 Điều 147; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81; khoản 3 Điều 82; khoản 2 Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

+ Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Thạch Thị N.

+ Về con chung: Giao con chung tên Thạch Thị Ngọc D, sinh ngày 25/02/2013 cho bà Thạch Thị N được trực tiếp nuôi dưỡng và ông Thạch U không phải cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Bà Thạch Thị N xác định trong thời gian chung sống bà Thạch Thị N và ông Thạch U không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Thạch U mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án như: Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Thạch U.

Bên cạnh đó, bà Thạch Thị N vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vắng mặt. Nên căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà Thạch Thị N.

[2] Về hôn nhân: Bà Thạch Thị N và ông Thạch U có đăng ký kết hôn vào ngày 06/3/2012 tại Uỷ ban nhân dân xã Đại Ân 2, huyện Trần Đề. Hôn nhân của ông bà tuân thủ các quy định từ Điều 9 đến Điều 14 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nên pháp luật công nhận quan hệ hôn nhân giữa bà Thạch Thị N và ông Thạch U là hợp pháp.

Bà Thạch Thị N vẫn giữ N yêu cầu Tòa án xin được ly hôn với ông Thạch U. Xét yêu cầu của bà Thạch Thị N Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình chung sống do hai bên bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã, dẫn đến mâu thuẫn, bất đồng về những sinh hoạt trong cuộc sống. Từ khi N đơn chính thức yêu cầu xin ly hôn cho đến nay, Tòa án đã gửi thông báo về việc thụ lý cho ông Thạch U và giữa bà Thạch Thị N, ông Thạch U từ khi sống ly thân từ tháng 08/2012 cho đến nay nhưng hai bên không tìm biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng và phù hợp với biên bản xác minh ngày 17/5/2022 về tình trạng hôn nhân giữa bà Thạch Thị N, ông Thạch U của Tòa án nhân dân huyện Long Phú. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà Thạch Thị N và ông Thạch U đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Thạch Thị N được ly hôn với ông Thạch U.

[3] Về con chung: Bà Thach Thị N yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu Thạch Thị Ngọc D, sinh ngày 25/02/2013. Xét thấy, hiện nay cháu D đang sống với Thạch Thị N, cháu D cũng có nguyện vọng được sống với bà N và để ổn định cuộc sống, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà N là người được trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu Thạch Thị Ngọc D, sinh ngày 25/02/2013 là có căn cứ.

Ông Thạch U có quyền thăm nom cháu Thạch Thị Ngọc D, sinh ngày 25/02/2013 không ai được cản trở theo khoản 3 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Bà Thach Thị N cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở ông Thạch U trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Thạch Thị Ngọc D, sinh ngày 25/02/2013 theo khoản 2 Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà N không yêu cầu ông Thạch U phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Trong quá trình chung sống bà Thạch Thị N cho rằng trong thời gian chung sống bà và ông Thạch U không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[6] Về nợ chung: Trong quá trình chung sống bà Thạch Thị N và ông Thạch U không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí: Bà Thạch Thị N phải chịu án phí theo qui định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[8] Như đã phân tích nêu trên xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú về đề nghị giải quyết về hôn nhân, con chung, tài sản chung, nợ chung là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, khoản 2 Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Bà Thạch Thị N và ông Thạch U được ly hôn.

2. Về con chung: Bà Thạch Thị N được trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu Thạch Thị Ngọc D, sinh ngày 25/02/2013; ông Thạch U có quyền thăm nom cháu Thạch Thị Ngọc D, sinh ngày 25/02/2013 không ai được cản trở. Bà Thạch Thị N cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở ông Thạch U trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Thạch Thị Ngọc D, sinh ngày 25/02/2013.

3. Về tài sản chung: Không có và các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: Không có và các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Thạch Thị N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0003375 ngày 29/3/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Phú. Như vậy, bà Thạch Thị N đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Thạch U không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

6. Nguyên đơn; bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

96
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 33/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về