Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 33/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 33/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/02/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 452/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 11 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2022/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 01 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Chíu Thị Thu T, nơi cư trú: Thôn B, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Đinh Như K; nơi cư trú: Thôn B, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Chíu Thị Thu T là nguyên đơn, khởi kiện với nội dung: Chị và anh Đinh Như K kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 23 tháng 10 năm 2013. Sau lễ cưới, vợ chồng vể chung sống cùng nhau tại thôn B, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận và có hai con chung, đến năm 2019 phát sinh mâu thuẫn và đến giữa năm 2021 thì mâu thuẫn trở nên trầm trọng. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, bất đồng trong sinh hoạt. Mặt khác, anh K mải chơi, nợ nần nhiều; việc làm ăn gặp nhiều khó khăn dẫn đến phải bán nhà đất để trả nợ. Vợ chồng vì thế mà xảy ra cãi mắng lẫn nhau thường xuyên, tình cảm phai nhạt. Gia đình đều đã hòa giải nhưng mâu thuẫn vợ chồng vẫn không được cải thiện. Chị T đã ra ngoài ở, anh K có tìm gọi nhưng Chị T không về đoàn tụ, vợ chồng sống ly thân từ tháng 11 năm 2021 đến nay, không ai còn quan tâm đến ai. Nay, chị Chíu Thị Thu T nhận thấy không còn tình cảm vợ chồng với anh K nên đề nghị được ly hôn với anh Đinh Như K. Chị và anh Đinh Như K có hai con chung là Đinh Thị Bảo C, sinh ngày 28 tháng 5 năm 2013 và Đinh Thị Ngọc L, sinh ngày 12 tháng 4 năm 2016. Khi ly hôn, Chị T đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung. Việc cấp dưỡng nuôi con do chị và anh K tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị và anh K không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Đinh Như K là bị đơn, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác, song đến ngày mở phiên tòa anh K vẫn không có văn bản trình bày ý kiến về quan hệ hôn nhân, con chung và tài sản chung.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã tuân theo đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Chíu Thị Thu T được ly hôn với anh Đinh Như K; đề nghị giao các con chung tên Đinh Thị Bảo C và Đinh Thị Ngọc L cho chị Chíu Thị Thu T trực tiếp nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nguyên đơn nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về sự vắng mặt của đương sự Bị đơn là anh Đinh Như K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về yêu cầu của chị Chíu Thị Thu T ly hôn với anh Đinh Như K Chị Chíu Thị Thu T và anh Đinh Như K kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng nên hôn nhân giữa Chị T và anh K là hôn nhân hợp pháp. Do mâu thuẫn vợ chồng không thể hòa giải và xác định không tiếp tục chung sống cùng nhau nên chị Chíu Thị Thu T làm đơn ly hôn với anh Đinh Như K. Tài liệu xác minh tại địa phương và tại gia đình thống nhất thể hiện: Vào giữa năm 2021, Chị T và anh K phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng xảy ra cãi mắng xúc phạm nhau. Chị T bỏ ra ngoài ở và đã sống ly thân với anh K. Gia đình đã khuyên bảo vợ chồng đoàn tụ nhưng không có kết quả. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh K mải chơi, không quan tâm đến việc làm ăn dẫn đến nợ nần nhiều phải bán nhà đất để trả nợ, kinh tế chung khó khăn. Từ đó vợ chồng nảy sinh tâm lý chán nản, xung đột, tình cảm ngày càng thờ ơ lạnh nhạt. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập và hòa giải nhưng anh Đinh Như K đều vắng mặt dẫn đến việc không thể hòa giải. Tại các bản tự khai và tại phiên tòa, chị Chíu Thị Thu T giữ nguyên đề nghị được ly hôn do xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh Đinh Như K.

Từ những căn cứ nêu trên cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và đời sống chung không thể tiếp tục kéo dài. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị T xin ly hôn anh K.

[3] Về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Chị Chíu Thị Thu T và anh Đinh Như K có hai con chung tên Đinh Thị Bảo C, sinh ngày 28 tháng 5 năm 2013 và Đinh Thị Ngọc L, sinh ngày 12 tháng 4 năm 2016. Khi ly hôn, Chị T đề nghị được trực tiếp nuôi cả hai con chung. Hội đồng xét xử xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định như sau: Từ khi vợ chồng sống ly thân vào tháng 11 năm 2021, Chị T trực tiếp nuôi con tên Đinh Thị Ngọc L và anh K trực tiếp nuôi con tên Đinh Thị Bảo C. Tuy nhiên, qua xác minh tại gia đình anh Đinh Như K cho thấy hiện nay anh K đang ở cùng với mẹ đẻ đã già yếu, bản thân anh K làm nghề đi biển từ 02 đến 03 tuần mới về, không thường xuyên ở nhà nên việc trực tiếp nuôi dưỡng con chung sẽ gặp nhiều khó khăn. Gia đình anh Đinh Như K có lời khai thể hiện quan điểm nếu Chị T muốn nuôi cả hai con chung thì cũng không có ý kiến gì. Mặt khác, trong thời gian vợ chồng ly thân, Chị T cũng đã đón con tên Đinh Thị Bảo C về chăm sóc nuôi dưỡng. Cháu Đinh Thị Bảo C là con gái và có trình bày nguyện vọng được ở cùng với Chị T. Chị T hiện đang buôn bán tự do, có điều kiện về thời gian và thu nhập hàng tháng để thực hiện việc nuôi con. Anh Đinh Như K không có lời khai thể hiện quan điểm về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn.

Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, điều kiện thực hiện việc nuôi con của đương sự và quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử xét giao cho chị Chíu Thị Thu T trực tiếp nuôi dưỡng các con chung là phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

Cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Chị Chíu Thị Thu T không đề nghị Tòa án giải quyết về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung, chị Chíu Thị Thu T khai vợ chồng không có tài sản chung và không đề nghị Tòa án giải quyết. Mặt khác không có lời khai của bị đơn là anh Đinh Như K về tài sản chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này.

[5] Về án phí, chị Chíu Thị Thu T phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Chíu Thị Thu T:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Chíu Thị Thu T được ly hôn anh Đinh Như K.

2. Về con chung: Giao cho chị Chíu Thị Thu T trực tiếp nuôi dưỡng các con chung là Đinh Thị Bảo C, sinh ngày 28 tháng 5 năm 2013 và Đinh Thị Ngọc L, sinh ngày 12 tháng 4 năm 2016 cho đến khi các con chung thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn: Các đương sự tạm thời không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng cho con.

3. Về án phí: Chị Chíu Thị Thu T phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0007673 ngày 26/11/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), chị Chíu Thị Thu T đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Chíu Thị Thu T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Đinh Như K có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 33/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về