TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 32/2024/HNGĐ-ST NGÀY 09/09/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Hôm nay, ngày 09 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 69/2024/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2024 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2024/QĐXXST- HNGĐ ngày 13/8/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 34/2024/QĐST- HNGĐ ngày 29/8/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Ngô Thị Thanh T, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn Đ, xã P, huyện L, tỉnh Quảng Bình, có mặt.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Công K, sinh năm 1979; địa chỉ: Thôn M, xã M, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ly hôn ngày 07/6/2024, bản tự khai ngày 17/7/2024 và tại phiên tòa nguyên đơn chị Ngô Thị Thanh T đều trình bày:
Chị và anh Nguyễn Công Ktìm hiểu và kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện L, tỉnh Quảng Bình vào ngày 24/02/2012.
Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau được khoảng 10 năm thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không phù hợp quan điểm, nên thường xuyên cải vã, nói nhau. Trong cuộc sống anh K không quan tâm đến gia đình, tự làm tự ăn và thường xuyên đánh đập chị T vì tính tình gia trưởng. Vì chịu không nổi nên chị T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ để sống từ tháng 10/2023 cho tới nay. Nay xét thấy tình cảm giữa chị và anh K không còn, sống với nhau không có hạnh phúc nên chị yêu cầu được ly hôn anh Nguyễn Công K.
Về con chung: Chị T trình bày chị và anh K có 02 con chung là Nguyễn Công M, sinh ngày 23/9/2012 và Nguyễn Công V, sinh ngày 25/9/2015. Sau khi ly hôn, chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con Nguyễn Công V, giao con Nguyễn Công M cho anh K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.
Về tài sản chung: Không có, nên chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn anh Nguyễn Công K:
Anh K vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại Bản tự khai ngày 21/8/2024 anh K trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Ngô Thị Thanh T tìm hiểu và kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện L, tỉnh Quảng Bình vào ngày 24/02/2012. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc được khoảng 10 năm thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không phù hợp, trong cuộc sống về kinh tế giữa anh K và chị T không rõ ràng, chị T vay mượn từ người này đến người khác nhưng anh K không được biết dẫn đến vợ chồng xích mích cải cọ, thậm chí đánh nhau. Hiện tại anh Kvà chị T sống ly thân và chị T làm đơn xin ly hôn, nhưng anh K xét thấy anh vẫn còn tình cảm với chị T nên anh mong muốn xin được đoàn tụ.
Về con chung: Anh K trình bày anh và chị T có 02 con chung là Nguyễn Công M, sinh ngày 23/9/2012 và Nguyễn Công V, sinh ngày 25/9/2015. Nếu không đoàn tụ được mà phải ly hôn, nguyện vọng của anh K xin được nuôi cả 2 con Nguyễn Công V và con Nguyễn Công M, anh không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con với anh.
Về tài sản chung: Không có, nên anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Giấy triệu tập tham gia phiên tòa đến các đương sự hợp lệ nhưng bị đơn anh Nguyễn Công K vẫn vắng mặt, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa lần thứ nhất ngày 29/8/2024.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra và kết quả hỏi tại phiên tòa;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng: Yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị Thanh T xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn với anh Nguyễn Công K là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Nguyễn Công K có địa chỉ cư trú tại huyện L, tỉnh Quảng Bình nên Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Công K đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Giấy triệu tập đến tham gia phiên tòa ngày 29/8/2024, nhưng anh Nguyễn Công K vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất và không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa lần thứ hai anh Nguyễn Công K vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ quy định khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn Nguyễn Công K.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và trình bày của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa thì chị Ngô Thị Thanh T và anh Nguyễn Công K lấy nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện L, tỉnh Quảng Bình vào ngày 24/02/2012 là hôn nhân hợp pháp.
[2.2]. Về mâu thuẫn: Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau được khoảng 10 năm thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không phù hợp quan điểm, không phù hợp tính tình. Về kinh tế giữa anh chị không có sự tin tưởng lẫn nhau nên thường xuyên cãi vã, nói nhau.
[2.3]. Qua xem xét, Hội đồng xét xử nhận thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Ngô Thị Thanh T và anh Nguyễn Công K thực tế như anh chị đã trình bày. Trong quá trình giải quyết, Tòa án đã tạo điều kiện hòa giải nhiều lần để vợ chồng có thể thông cảm, bỏ qua cho nhau, cải thiện quan hệ hôn nhân, xây dựng hạnh phúc gia đình. Tòa án đã thực hiện biện pháp tống đạt hợp lệ và gửi Quyết định đưa vụ án ra xét xử, nhưng anh K chỉ đến Tòa án trình bày quan điểm, sau đó anh K không đến tham gia phiên tòa mặc dù anh K đã nhận các văn bản do Tòa án tống đạt. Phiên tòa lần thứ hai anh K vẫn vắng mặt chứng tỏ anh K cố tình không chấp hành các thông báo, giấy triệu tập của Tòa án, không quan tâm bảo vệ hạnh phúc gia đình và không tha thiết hàn gắn tình cảm với chị T nữa.
Xét thấy, tình cảm vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T, xử cho chị Ngô Thị Thanh Tvà anh Nguyễn Công K được ly hôn nhau là có căn cứ và phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[2.4]. Về quan hệ con chung: Xét chị T và anh Khai có 02 con chung là Nguyễn Công M, sinh ngày 23/9/2012 và Nguyễn Công V, sinh ngày 25/9/2015. Sau khi ly hôn, chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con Nguyễn Công V, giao con Nguyễn Công M cho anh K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai. Qua bản trình bày nguyện vọng ngày 01/8/2024 của các con Nguyễn Công V và Nguyễn Công M, thì con Nguyễn Công V có nguyện vọng mong muốn xin được ở với chị T, còn con Nguyễn Công M có nguyện vọng mong muốn xin được ở với anh K. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận theo nguyện vọng của chị T, giao cho anh K được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con Nguyễn Công M, giao con Nguyễn Công V cho chị T được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của các con và phù hợp với các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[2.3] Về tài sản chung: Không có, chị T không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.4] Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.
[2.5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Ngô Thị Thanh T và anh Nguyễn Công K được ly hôn nhau.
2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Công M, sinh ngày 23/9/2012 cho anh Nguyễn Công K được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Giao con Nguyễn Công V, sinh ngày 25/9/2015 cho chị Ngô Thị Thanh T được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Ngô Thị Thanh T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Tiền án phí chị T phải chịu được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án huyện Lệ Thủy theo biên lai số số 0004406, ngày 21/6/2024. Chị Tình đã nộp đủ án phí.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (09/9/2024) bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao nhận hoặc ngày niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử theo trình tự phúc thẩm./.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 32/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 32/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/09/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về