Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 30/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 30/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 25/2021/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2021, về việc:“Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Võ Thị H; nơi ĐKHKTT: Khu phố H, thị trấn C, huyện V, tỉnh Quảng Trị; có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Phan Văn H; nơi ĐKHKTT và địa chỉ trước khi xuất cảnh: Khu phố H, thị trấn C, huyện V, tỉnh Quảng Trị; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 06/8/2021, nguyên đơn Chị Võ Thị H trình bày:

Chị Võ Thị H kết hôn cùng với Anh Phan Văn H vào ngày 24/7/2013, tại Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện V, tỉnh Quảng Trị trên cơ sở tự nguyện. Vợ chồng sống chung được 3 năm thì đến tháng 7 năm 2016 Anh Phan Văn H đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Thời gian đầu thì anh H còn quan tâm, nhưng sau đó thì anh không quan tâm, hỏi han gì đến vợ, từ ngày đi xuất khẩu lao động đến nay anh H không gửi tiền nuôi con, không liên lạc thăm hỏi động viện gì. Từ đó vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẩn không thể dung hòa được, nay tình cảm vợ chồng không còn, hạnh phúc gia đình không thể hàn gắn được. Thấy hôn nhân không thể kéo dài nên Chị Võ Thị H có đơn xin ly hôn với Anh Phan Văn H.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có một con chung là cháu Phan Thị Khánh L, sinh ngày 05/8/2013. Hiện nay ông Phan Văn L và bà Nguyễn Thị H (là bố, mẹ đẻ anh H) đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Ly. Nếu ly hôn chị Hà xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Ly. Chị Võ Thị H không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về thông tin xuất cảnh của Anh Phan Văn H: Theo xác nhận của Phòng quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Quảng Trị cho biết Anh Phan Văn H xuất cảnh ra nước ngoài lần gần nhất là ngày 25/11/2019 qua Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất đến nay chưa có thông tin nhập cảnh trở lại. Quá trình thụ lý và giải quyết vụ án Tòa án phải tống đạt các văn bản tố tụng cho Anh Phan Văn H thông qua người thân của anh H là ông Phan Văn L và bà Nguyễn Thị H (là bố mẹ đẻ của anh H); hiện trú tại: Khu phố H, thị trấn C, huyện V, tỉnh Quảng Trị.

Tại biên bản làm việc ngày 22/10/2021, ông Phan Văn L và bà Nguyễn Thị H (là bố mẹ đẻ của anh H) trình bày ý kiến:

Anh Phan Văn H là con đẻ của ông Phan Văn L và bà Nguyễn Thị H, có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh là ở tại Khu phố H, thị trấn C, huyện V, tỉnh Quảng Trị. Hiện tại, anh H đang lao động tại Đài Loan; mặc dù anh H thường xuyên liên lạc với gia đình thông qua Zalo, Facebook và điện thoại nhưng ông Lợi và bà Hiệp không biết và không được anh H cung cấp địa chỉ nơi sinh sống và làm việc tại Đài Loan. Vợ chồng anh H và chị Hà có 01 con chung là cháu Phan Thị Khánh L, sinh ngày 05/8/2013; hiện tại ông Lợi và bà Hiệp đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Ly và cháu đang học tập trên địa bàn thị trấn Cửa Tùng, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.

Trong quá trình giải quyết vụ án, gia đình đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án và đã chụp hình gửi qua Zalo và thông báo cho anh H biết việc chị Hà có đơn xin ly hôn và TAND tỉnh Quảng Trị đang thụ lý giải quyết vụ việc. Thông qua liên lạc điện thoại, anh H nhờ gia đình thông báo lại với Tòa án về ý kiến của anh H như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Vợ chồng có nhiều mâu thuẩn, tính cách không hòa hợp, tình cảm vợ chồng không còn nên đồng ý ly hôn Chị Võ Thị H.

- Về con chung: có 01 con chung là cháu Phan Thị Khánh L, sinh ngày 05/8/2013. Nếu ly hôn thì anh H xin nuôi con, hàng tháng anh H gửi tiền về nhờ ông bà nội chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Ly.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị trình bày ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và các Hội thẩm nhân dân, Thư ký đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 71 BLTTDS; Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên vi phạm quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 72 BLTTDS.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 147, khoản 1, 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị H được ly hôn với Anh Phan Văn H.

- Về con chung: Giao cháu Phan Thị Khánh L, sinh ngày 05/8/2013 cho chị Võ Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

- Về án phí: Chị Võ Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

Ngày 06/8/2021, Chị Võ Thị H có đơn khởi kiện xin ly hôn đối với Anh Phan Văn H; tại thời điểm này anh H đã xuất cảnh, chưa có thông tin nhập cảnh trở lại. Trước và sau khi thụ lý vụ án, chị Hà và người thân của anh H không cung cấp được địa chỉ nơi sinh sống, làm việc ở nước ngoài của anh H. Tuy nhiên, anh H vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình thông qua điện thoại và mạng xã hội. Anh H đã được người thân thông tin về việc chị Hà khởi kiện xin ly hôn và vụ việc đang do TAND tỉnh Quảng Trị giải quyết nhưng vẫn không có ý kiến bằng văn bản, không cung cấp địa chỉ nơi làm việc, cư trú nên được coi là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của TAND tối cao về việc:“Giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ” để giải quyết vụ án theo thủ tục chung theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng Anh Phan Văn H vắng mặt nên Tòa án lập biên bản không tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được; Tòa án đã tiến hành các thủ tục để mở phiên tòa xét xử vụ án theo quy định của pháp luật, nhưng phiên tòa ngày 15/11/2021 anh H vắng mặt lần thứ nhất mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nên Hội đồng xét xử Quyết định hoãn phiên tòa và ấn định lại phiên tòa được xét xử lại vào ngày 30/11/2021 (theo đúng kế hoạch giải quyết vụ án đã thông báo trước cho anh H). Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập anh H đến phiên tòa ngày 30/11/2021 thông qua người thân là bố, mẹ đẻ của anh H. Ngày 10/11/2021, Chị Võ Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt. Tại phiên tòa hôm nay anh H vẫn vắng mặt không có lý do, chị Hà có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn Chị Võ Thị H và bị đơn Anh Phan Văn H.

[2]. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Võ Thị H và Anh Phan Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 24/7/2013 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Cửa Tùng, huyện Vĩnh Linh và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa chị Hà và anh H là hợp pháp. Nay Chị Võ Thị H yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn Anh Phan Văn H, do đó Tòa án căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28 BLTTDS để xem xét giải quyết vụ án.

Xét yêu cầu xin ly hôn của Chị Võ Thị H Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong quá trình chung sống, giữa chị Hà và anh H có thời gian chung sống hạnh phúc hơn 03 năm. Tuy nhiên, từ khi anh H đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan vào năm 2016, vợ chồng bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẩn, thời gian dài vợ chồng không liên lạc, không quan tâm đến nhau, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, cần căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Võ Thị H để xem xét cho chị Hà được ly hôn đối với Anh Phan Văn H.

[3]. Về con chung: Chị Võ Thị H và Anh Phan Văn H có 01 con chung là cháu Phan Thị Khánh L, sinh ngày 05/8/2013. Nếu ly hôn chị Hà xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Ly và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, từ khi anh H đi xuất khẩu lao động đến nay, cháu Khánh Ly do bố, mẹ anh H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; cháu Ly hiện đang học tại địa bàn thị trấn Cửa Tùng (nơi bố, mẹ anh H sinh sống) và cháu Ly có nguyện vọng được ở với ông bà nội vì cháu ở với ông bà từ nhỏ. Tuy nhiên, do hiện tại anh H đang ở nước ngoài, không có mặt tại địa phương nên không đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Chị Võ Thị H hiện đang ở địa phương, có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Ly của chị Hà là có cơ sở. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu của chị Hà giao cháu Phan Thị Khánh L, sinh ngày 05/8/2013 cho chị Hà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Do hiện tại cháu Ly đang được ông bà nội chăm sóc, nuôi dưỡng và chị Hà cũng đồng ý cho cháu Ly ở với ông bà nội nhằm ổn định học tập và sinh sống, do đó cháu Ly vẫn tiếp tục sinh sống tại gia đình ông bà nội, tuy nhiên về mặt pháp lý cháu Ly phải được giao cho Chị Võ Thị H chăm sóc, nuôi dưỡng. Sau này khi anh H về nước nếu có nguyện vọng nuôi dưỡng, chăm sóc con thì có quyền gửi đơn đến TAND có thẩm quyền để xem xét giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Võ Thị H không yêu cầu Anh Phan Văn H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[6]. Về án phí: Chị Võ Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238, khoản 2 Điều 479 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Chị Võ Thị H, tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị H được ly hôn với Anh Phan Văn H.

2. Về con chung: Giao cháu Phan Thị Khánh L, sinh ngày 05/8/2013 cho Chị Võ Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, Anh Phan Văn H không phải cấp dưỡng nuôi con do Chị Võ Thị H không yêu cầu.

Người không trực tiếp được giao nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

3. Về án phí: Chị Võ Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số CC/2021/0000005 ngày 11/10/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Trị (chị Hà đã nộp đủ án phí).

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn Chị Võ Thị H có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, bị đơn Anh Phan Văn H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

75
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 30/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:30/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Trị
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về