TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 29/2024/HNGĐ-ST NGÀY 01/03/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 01 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 539/2023/TLST- HN&GĐ ngày 04 tháng 12 năm 2023 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26A/2024/QĐXXST-HN&GĐ ngày 19 tháng 01 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2024/QĐST-HN&GĐ ngày 01 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Ngô Thị Ngọc H1, sinh năm 1995;
Nơi cư trú: Thôn Xuân Phong, xã Phong Nẫm, thành phố Pt, tỉnh Bình Thuận.
- Bị đơn: Anh Hoàng Đình Minh H, sinh năm 1993;
Nơi cư trú: Số 50, đường Hải Thượng Lãn Ông, khu phố 7, thị trấn Vx, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.
Tại phiên tòa, có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày:
Về hôn nhân: Đầu năm 2022, chị H1 và anh H có thai với nhau nên đã tiến tới hôn nhân. Sau khi kết hôn, chị H1 về chung sống với anh H và gia đình anh H tại khu phố 7, thị trấn Vx, huyện Đức Linh. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống bình thường không nảy sinh mâu thuẫn, tuy nhiên trong quá trình chung sống, chị H1 phát hiện anh H đã có những hành vi như: tự ý lấy tiền, trang sức của chị H1 để cầm cố và trả nợ riêng cá nhân như vay tiền qua app và vay tiền nặng lãi của một số cá nhân trước khi kết hôn mà chị H1 không biết đến các khoản nợ trên, với số tiền lớn mà không có khả năng chi trả. Nhưng do cha mẹ anh H đứng ra trả nợ và bản thân chị H1 cũng vì nghĩ cho con nên đã bỏ qua một lần. Đến khi mang thai được 8 tháng gia đình chị H1 lại phát hiện anh H tiếp tục gây nợ và có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, do quá bất mãn nên chị H1 đã chuyển về nhà mẹ ruột tại thôn Xuân Phong, xã Phong Nẫm, Tp. Pt sinh sống. Tuy nhiên, được hai bên gia đình khuyên nhủ, do đó chị H1 cũng đã bỏ qua lần hai. Đỉnh điểm đến đầu năm 2023, khi chị H1 sinh con được 4 tháng và đang ở nhà mẹ ruột đã có nhiều người gọi điện thường xuyên đến số điện thoại của chị H1 để đòi tiền trả nợ do anh H vay mượn với số tiền rất lớn, vượt khả năng anh H chi trả, vì lúc đó anh H đã đi trốn và không đi làm việc Bệnh viện Đa khoa khu vực phía Nam Bình Thuận kể từ ngày 01/01/2023 cho đến nay. Bên cạnh đó, anh H còn tự ý lấy 01 cà vẹt xe SH model do bà Ngô Thị Luyến đứng tên (mẹ ruột chị H1) được chị H1 để lại nhà ba mẹ anh H trước khi về nhà mẹ ruột để sinh con và mang đi cầm cố lấy tiền trả nợ. Với số nợ càng lúc càng nhiều mà không có khả năng chi trả, tự tiện lấy tài sản của chị H1 thế chấp và có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, khiến chị H1 không thể chấp nhận tha thứ được, vì vậy chị H1 vẫn tiếp tục ở lại nhà mẹ ruột và sống ly thân với anh H từ ngày 13/9/2022 cho đến nay. Chị H1 xác định không còn tình cảm với anh H, mâu thuẫn trầm trọng và yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn anh H.
Về con chung: Chị H1 khai nhận giữa anh H có với nhau 01 con chung tên Hoàng Gia H2, sinh ngày 13/9/2022. Chị H1 yêu cầu được quyền nuôi con chung và tự thỏa thuận cấp dưỡng nuôi con với anh H, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung và nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.
Đối với bị đơn: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo hòa giải, giấy triệu tập và Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị đơn, tuy nhiên bị đơn không cung cấp ý kiến, tài liệu chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện ly hôn, nuôi con đối với bị đơn, không yêu cầu giải quyết tranh chấp về cấp dưỡng, tài sản chung và nợ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký Tòa án và Hội đồng xét xử trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng được pháp luật quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ được quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ được quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và chấp nhập yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể:
1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Ngô Thị Ngọc H1 ly hôn anh Hoàng Đình Minh H.
2. Về con chung: Giao cho chị Ngô Thị Ngọc H1 quyền, nghĩa vụ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung tên Hoàng Gia H2, sinh ngày 13/9/2022.
3. Ghi nhận ý kiến tự nguyện của chị H1 về việc không yêu cầu giải quyết tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ.
4. Buộc chị H1 chịu án phí ly hôn theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Nguyên đơn Ngô Thị Ngọc H1 khởi kiện ly hôn, tranh chấp về nuôi con với bị đơn Hoàng Đình Minh H; bị đơn Hoàng Đình Minh H có nơi đăng ký thường trú tại khu phố 7, thị trấn Vx, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.
Căn cứ Điều 51, 56, 57, 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.
[2] Về tố tụng: Bị đơn đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt và không có đơn xin xét xử vắng mặt.
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án nhân dân huyện Đức Linh xét xử vắng mặt bị đơn.
[3] Về nội dung: Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định nội dung vụ án như sau:
[3.1] Về hôn nhân: Chị H1 và anh H tự nguyện tìm hiểu, yêu thương nhau và đi đến hôn nhân vào năm 2022, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Vx, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa chị H1 và anh H được công nhận là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.
Sau khi kết hôn, chị H1 và anh H sống chung với nhau như vợ chồng tại khu phố 7, thị trấn Vx, huyện Đức Linh được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn theo lời khai của chị H1 là do anh H không chăm lo cho vợ, con và gia đình, làm phát tán tài sản của gia đình và anh chị không hợp nhau về mọi vấn đề, bất đồng về quan điểm sống; qua hòa giải và tại phiên tòa chị H1 đều xác định tình cảm vợ chồng không còn và kiên quyết ly hôn anh H; đối với anh H cũng không có động thái nào để tác động chị H1 rút lại yêu cầu ly hôn.
Qua kết quả xác minh đối với ông Hoàng Đình Huân (cha của anh H) lập ngày 09/01/2024 thể hiện giữa chị H1 và anh H có mâu thuẫn vợ chồng và hiện tại anh chị không còn chung sống như vợ chồng.
Từ những phân tích trên cho thấy, quan hệ hôn nhân giữa chị H1 và anh H đã thật sự lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H1 đối với anh H.
[3.2] Về con chung: Căn cứ bản sao giấy khai sinh số 338/2022, đăng ký ngày 06/10/2022 có thể khẳng định cháu Hoàng Gia H2, sinh ngày 13/9/2022 là con chung của chị H1 và anh H.
Sau khi ly hôn, chị H1 yêu cầu được nuôi dưỡng con chung; Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của anh H về vấn đề nuôi con chung. Tuy nhiên, nhận thấy tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm thì cháu Hoàng Gia Hân còn dưới 36 tháng tuổi, cháu có giới tính là nữ, từ lúc sinh ra cho đến nay thì cháu Hân được chị H1 và gia đình chị H1 trực tiếp nuôi dưỡng; mặt khác, chị H1 có công việc, thu nhập ổn định, có sức khỏe và nhân thân tốt. Do đó, căn cứ khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Hoàng Gia Hân cho chị H1 trực tiếp trông nom, chăm sóc, muôi dưỡng và giá dục.
[3.3] Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ: Hội đồng xét xử ghi nhận ý kiến của đương sự về việc không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.
[4] Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39; các Điều 143, 144, 147, 227, 228, 235, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng các Điều 9, 51, 56, 57, 81, 82, 84 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Áp dụng Điều 26 Luật thi hành án dân sự.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị Ngọc H1.
1. Về hôn nhân: Chị Ngô Thị Ngọc H1 ly hôn anh Hoàng Đình Minh H.
Giấy chứng nhận kết hôn số 63, đăng ký ngày 05/4/2022 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Vx, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận giữa chị Ngô Thị Ngọc H1 và anh Hoàng Đình Minh H hết hiệu lực kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
2. Về con chung: Giao cho chị Ngô Thị Ngọc H1 quyền, nghĩa vụ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung tên Hoàng Gia H2, sinh ngày 13/9/2022.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trong trường hợp lạm dụng việc thực hiện quyền này để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại Điều 86 Luật hôn nhân và gia đình có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con chưa thành niên của người không trực tiếp nuôi con.
Vì lợi ích của con, khi có lý do chính đáng, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Ghi nhận ý kiến của các đương sự về việc không yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản, nợ chung trong vụ án này.
4. Về án phí: Buộc chị Ngô Thị Ngọc H1 phải nộp số tiền 300.000đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận theo biên lai thu số 0004015 ngày 04/12/2023. Chị Ngô Thị Ngọc H1 đã nộp đủ tiền án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết, để Tòa án cấp trên xét xử theo trình tự phúc thẩm.
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 29/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 29/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 01/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về