Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 28/2023/HNGĐ-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 28/2023/HNGĐ-PT NGÀY 29/06/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 29/6/2023 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh B xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 18/2023/TLPT-HNGĐ ngày 09/5/2023 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” do Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 27/2023/HNGĐ-ST ngày 23/3/2023 của Toà án nhân dân huyện L, tỉnh B bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 17/2023/QĐ-PT ngày 15/6/2023 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Anh Tào Văn P, sinh năm 1986 (Có mặt) Địa chỉ: Thôn 2, xã Thạch Hòa, huyện Thạch Thất, thành phố H.

* Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1990 (Có mặt) Địa chỉ: thôn Tân Thành, xã Kiên Thành, huyện L, tỉnh B.

* Người kháng cáo: Nguyên đơn anh Tào Văn P.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện và các lời khai anh Tào Văn P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Kiên Thành trên cơ sở tự nguyện. Sau ngày cưới vợ chồng về chung sống tại thôn Tân Thành, xã Kiên Thành, L. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hoà hợp hạnh phúc. Đến khoảng năm 2019 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau, hay bất đồng quan điểm sống và trong cách nuôi dạy con, cuộc sống không hạnh phúc. Đến tháng 5/2019 vợ chồng ly thân không quan hệ tình cảm cũng như kinh tế. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn giữa anh và chị H.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung: Tào Nguyễn Quỳnh C, sinh ngày 26/5/2016, con Tào Thanh T, sinh ngày 20/02/2019. Hiện các cháu đang ở với mẹ ở tại Tân Thành, Kiên Thành, từ bé đến nay cháu vẫn ở địa chỉ trên. Nguyện vọng của anh sau khi ly hôn được nuôi dưỡng cả hai con. Điều kiện nuôi con của anh, hiện nay là bộ đội sỹ quan, công tác tại trường sỹ quan chính trị tại xã Thạch Hòa, huyện Thạch Thất, H. Thu nhập hàng tháng có xác nhận đơn vị 10.200.000đồng/1 tháng. Chỗ ở hiện nay anh đang ở phòng làm việc tại đơn vị. Trong trường hợp được nuôi con thì anh sẽ thuê nhà công vụ trong Trường để ở và chăm sóc cho hai con. Về cấp dưỡng nuôi con chung, anh không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, riêng, chung, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị xác định về quan hệ hôn nhân, thời gian chị và Tào Văn P cưới nhau, về chung sống, cưới có đăng ký kết hôn như lời trình bày trên của anh P là đúng. Trong quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn vào khoảng năm 2019 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, việc vợ chồng mâu thuẫn là do từ phía anh P, do anh P không quan tâm đến gia đình, tình cảm vợ chồng rạn nứt từ đó. Đến tháng 5/2019 vợ chồng ly thân không quan hệ tình cảm cũng như kinh tế. Anh P có đơn đề nghị giải quyết ly hôn nếu anh P đồng ý cho chị nuôi dưỡng cả hai con chung thì chị mới đồng ý ly hôn, nếu không chị không đồng ý ly hôn với anh P.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung như anh P trình bày trên là đúng. Hiện các cháu đang ở với mẹ ở tại Tân Thành, Kiên Thành, từ bé đến nay con vẫn ở với chị. Nguyện vọng sau ly hôn được nuôi dưỡng cả hai con. Điều kiện nuôi con của chị, hiện nay chị làm tại Nha khoa Thùy, có xác nhận thu nhập chính 7.000.000đồng/tháng, ngoài ra còn có thu nhập ngoài làm vườn, bán hàng ăn sáng, tổng thu nhập khoảng 9 đến 10 triệu đồng/tháng. Về nơi ở chị có nơi ở ổn định, các con ở cùng nhà với bố mẹ đẻ chị. Hiện cháu Nguyễn Quỳnh Chi học lớp 1 trường tiểu học Kiên Thành. Về cấp dưỡng nuôi con chung chị không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con chung.

* Cháu Tào Nguyễn Quỳnh C có nguyện vọng được ở với mẹ là chị Nguyễn Thị H.

* Tại biên bản xác minh ngày 07/3/2023, Tòa án xác minh tại nơi làm việc của anh Tào Văn P, hiện nay anh P chưa có nhà ở, do một mình nên anh P ở tại phòng làm việc. Về thời gian làm việc tại đơn vị, anh làm theo giờ hành chính và có phải trực vào thứ 7, chủ nhật (một tuần trực, một tuần nghỉ). Gia đình anh P ở gần nơi làm việc không có ai, bố mẹ đẻ đều sinh sống trong Thanh Hóa. Hiện nay điều kiện công việc của anh P, anh P đang tham dự lớp ôn thi cao học, sau nếu đỗ anh P đi học tập trung 02 năm liền tại Học viện chính trị.

* Tại biên bản xác minh ngày 22/3/2023 tại địa phương nơi ở của chị Nguyễn Thị H về điều kiện nuôi con của chị H, chị có mở thêm phòng khám răng tại nhà, hiện nay chị H và các con đang ở cùng ông bà ngoài, nhà ở trung tâm xã Kiên Thành, gần trường học, trạm y tế, bố mẹ chị H sức khỏe tốt, đảm bảo điều kiện nuôi con.

* Với nội dung nêu trên, Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 27/2023/HNGĐ-ST ngày 23/3/2023 của Toà án nhân dân huyện L đã quyết định:

Căn cứ Điều 9, Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Tào Văn P và chị Nguyễn Thị H.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị H là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tào Nguyễn Quỳnh C, sinh ngày 26/5/2016 và cháu Tào Thanh T, sinh ngày 20/02/2019.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo cho các đương sự.

* Ngày 23/3/2023 nguyên đơn anh Tào Văn P có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm về phần con chung và anh đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết giao cho anh được nuôi 01 con chung.

* Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, không rút đơn kháng cáo. Các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án.

- Anh Tào Văn P trình bày: Anh có nguyện vọng được nuôi cả hai con tuy nhiên nếu không được nuôi cả hai anh đề nghị được nuôi 01 cháu trai, hiện nay anh đang ở trong trường tuy nhiên nếu được nuôi 01 con chung anh sẽ thuê nhà công vụ để nuôi dưỡng chăm sóc con chung, ngoài ra anh sẽ đón ông bà nội đến để hỗ trợ anh trong thời gian anh bận việc cơ quan.

- Chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị không đồng ý giao con cho anh nuôi dưỡng lý do các con anh đang sống chung cùng chị từ nhỏ, chị có thu nhập ổn định từ việc mở phòng khám răng và thu nhập khác nên chị có điều kiện và thời gian chăm sóc con chung. Chị đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã được đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, giữ nguyên Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 27/2023/HNGĐ-ST ngày 23/3/2023 của Toà án nhân dân huyện L, tỉnh B.

Về án phí phúc thẩm: Anh Tào Văn P phải chịu án phí phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, căn cứ tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, nghe ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, sau khi thảo luận nghị án, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1]. Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số: 27/2023/HNGĐ-ST ngày 23/3/2023 của Toà án nhân dân huyện L, tỉnh B đã giải quyết: Về quan hệ hôn nhân, nội dung này các đương sự không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[2]. Xét nội dung kháng cáo của anh Tào Văn P đề nghị nuôi con chung, HĐXX thấy:

Anh P và chị H có 02 con chung là cháu Tào Nguyễn Quỳnh C, sinh ngày 26/5/2016 và cháu Tào Thanh T, sinh ngày 20/02/2019, cả hai cháu hiện nay đều đang ở với chị H. Cháu Tào Nguyễn Quỳnh C có nguyện vọng được ở với chị H. Tòa án cấp sơ thẩm giao cho chị H nuôi dưỡng cả 02 con chung Sau khi xét xử sơ thẩm, anh Đoàn kháng cáo đề nghị được nuôi dưỡng 1 cháu.

HĐXX xét thấy: Nguyện vọng được nuôi con chung của anh P và chị H là chính đáng, thể hiện trách nhiệm của người làm cha, làm mẹ đối với con. Về điều kiện nuôi con của anh P theo xác minh thể hiện thì hiện nay mặc dù anh có thu nhập ổn định nhưng anh hiện anh đang ở tại phòng làm việc trong đơn vị, chưa có nhà ở riêng ổn định. Trong khi đó gia đình anh P ở xa không ở gần để hỗ trợ anh trong việc chăm sóc con. Bản thân anh P làm trong môi trường quân đội, thường xuyên xa nhà nên các con từ bé chủ yếu do chị H chăm sóc nuôi dưỡng. Chị H hiện nay có công việc và thu nhập ổn định, cháu Tào Nguyễn Quỳnh C có nguyện vọng ở với mẹ, còn cháu Tào Thanh T hiện nay mới 04 tuổi đang học mẫu giáo nên cần sự quan tâm chăm sóc nhiều hơn từ người mẹ.

Như vậy, để không làm xáo trộn cuộc sống của các cháu và để đảm bảo cho các cháu được phát triển tốt về mọi mặt, Tòa án cấp sơ thẩm đã giao cháu Tào Nguyễn Quỳnh C và cháu Tào Thanh T cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Do vậy, kháng cáo của anh P không được chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con chung do các đương sự không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Từ những nội dung trên HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của anh Tào Văn P, giữ nguyên Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 12/2023/HNGĐ-ST ngày 24/02/2023 của Toà án nhân dân huyện L, tỉnh B.

[4]. Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của anh P không được chấp nhận nên anh P phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 148 BLTTDS và khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

[5]. Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

1. Không chấp nhận kháng cáo của anh Tào Văn P. Giữ nguyên Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 12/2023/HNGĐ-ST ngày 24/02/2023 của Toà án nhân dân huyện L, tỉnh B.

2. Án phí phúc thẩm: Anh Tào Văn P phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền số 0003925 ngày 23 tháng 3 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện L, tỉnh B.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 28/2023/HNGĐ-PT

Số hiệu:28/2023/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về