Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 28/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ P, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 28/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 462/2021/TLST- HNGĐ ngày 31 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 19/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2022/QĐST- HNGĐ ngày 18 tháng 4 năm 2022; Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng số 14/2022/QĐ-TĐNTHTT ngày 15 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Ngô Văn N, sinh năm 1987.

Nơi ĐKHKTT: Tổ T, khu phố L, phường H, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1985.

Nơi ĐKHKTT: Tổ T, khu phố L, phường H, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

 Nơi cư trú cuối cùng: Tổ T, khu phố L, phường H, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

(Ông N có mặt, bà H vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn ông Ngô Văn N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Ngô Văn N và bà Nguyễn Thị Thu H kết hôn năm 2014, được UBND xã H, huyện B (nay là phường H, thị xã P) cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 17-6-2014. Hôn nhân hai bên là tự nguyện, không bị ép buộc.

Quá trình chung sống vợ chồng ông bà xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do không có tiếng nói chung trong cuộc sống, cách sống, suy nghĩ, đời sống hôn nhân không có hạnh phúc, ông bà thường xuyên xảy ra tranh cãi về những vấn đề nhỏ nhặt hàng ngày. Hai bên gia đình đã nhiều lần cố gắng vun vén, hoà giải nhưng không thành. Khoảng năm 2016 bà H đã dẫn con chung là cháu Ngô Gia B bỏ đi khỏi địa phương, từ đó không về nữa, ông N cũng không có tin tức gì của bà H. Ông N đã yêu cầu Tòa án tuyên bố bà H mất tích và được Tòa án nhân dân thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chấp nhận theo Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số 13/2021/QĐST-VDS ngày 04-11-2021. Do đó, ông N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà H theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Ông N và bà H có 01 con chung tên là Ngô Gia B, sinh ngày 26-11-2014. Sau khi ly hôn ông Ngô Văn N đồng ý giao cháu B cho bà H nuôi dưỡng, ông N không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ nhưng không đến Tòa làm việc nên không có lời khai.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã P tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

* Về tố tụng:

- Việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán từ khi thụ lý hồ sơ là đúng quy định.

- Việc chấp hành pháp luật của Hội đồng xét xử và đương sự là đúng quy định.

* Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn và nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Về án phí: Buộc ông N phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Về thẩm quyền giải quyết: Ông Ngô Văn N có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn, bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H có địa chỉ cư trú cuối cùng tại Tổ T, khu phố L, phường H, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Về quan hệ pháp luật: Ông N yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thị Thu H và yêu cầu giải quyết về con chung vì vậy quan hệ pháp luật của vụ án được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ vào Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Ông N và bà H kết hôn năm 2014, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã H, huyện B (nay là phường H, thị xã P), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 42/2014 ngày 17-6-2014, nên hôn nhân giữa ông N và bà H là hợp pháp.

Trong thời gian chung sống được khoảng 02 năm. Đến khoảng năm 2016 bà Nguyễn Thị Thu H đã bỏ nhà đi khỏi địa phương, ông N không có tin tức gì. Ông N đã yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích đối với bà H và được chấp nhận. Theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu khởi kiện của ông N là có căn cứ để chấp nhận.

Về con chung: Căn cứ Giấy khai sinh số 247 ngày 10-12-2014 của Ủy ban nhân dân xã H, huyện B (nay là phường H, thị xã P), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thì ông Ngô Văn N và bà Nguyễn Thị Thu H có 01 con chung tên là Ngô Gia B, sinh ngày 26-11-2014. Ông N đồng ý giao con chung cho bà H nuôi dưỡng, ông N không cấp dưỡng nuôi con.

Xét bà H đã bỏ nhà đi biệt tích hơn 02 năm liền, khi đi bà H dẫn theo cháu Ngô Gia B, không liên lạc với gia đình, không ai có tin tức gì của bà H và cháu B. Căn cứ vào Biên bản xác minh ngày 21-02-2022, công an phường H xác nhận: “Bà H và cháu B không sinh sống tại địa phương từ năm 2016 cho đến nay; bà H và cháu B đi đâu không báo nên địa phương không rõ”. Ông N không tranh chấp về con chung. Vì vậy, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử xét giao cháu Ngô Gia B cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng là có cơ sở và phù hợp với thực tế. Ông N không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thị xã P đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ông Ngô Văn N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 147, 227, 228, 235, 266, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Ngô Văn N về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

1. Về hôn nhân: Ông Ngô Văn N được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thu H.

2. Về con chung: Giao cho bà Nguyễn Thị Thu H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Ngô Gia B, sinh ngày 26-11-2014. Ông N không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 và Điều 119 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Ông Ngô Văn N phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005723 ngày 30-12-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ông N đã nộp đủ án phí.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 05-5-2022) các đương sự có mặt có quyền kháng cáo. Đối với các đương sự vắng mặt thì thời hạn này được tính kể từ ngày nhận được bản án do Tòa án tống đạt hoặc niêm yết để kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 28/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:28/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về