Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 280A/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH T

BẢN ÁN 280A/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/12/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T; Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 175/2021/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2021 về "ly hôn, tranh chấp về nuôi con", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Thúy V, sinh năm 1985; có mặt. Nơi ĐKHKTT: thôn L, xã X, huyện T, T.

Nơi ở hiện nay: xóm 8 xã Hương Lâm, huyện H, tỉnh H - Bị đơn: A Lê văn C, sinh năm 1986; có mặt. Trú tại: thôn L, xã X, huyện T, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 12 tháng 5 năm 2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Lê Thị Thúy V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị và anh C qua tìm hiểu, tự nguyện đi đến hôn nhân, có tổ chức cưới theo phong tục địa phương và làm đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hương Lâm, huyện H, tỉnh H vào ngày 12/05/2008. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do mâu thuẫn giữa chị và Bố mẹ chồng và chồng không bảo vệ chị nên tình cảm vợ chồng phai nhạt dần. Vợ chồng đã sống ly thân mấy tháng nay. Nay chị xác định không còn tình cảm và mâu thuẫn không thể hàn gắn được, nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh C.

Về con chung: chị V xác định vợ chồng có 02 (hai) con là cháu Lê Thị V A, sinh ngày 20/12/2008 và cháu Lê Minh Q sinh ngày 16/6/2011, hiện tại các con đang ở với anh C. Quan điểm của chị là xin được trực tiếp nuôi cả 02 con và yêu cầu anh C phải cấp dưỡng mỗi cháu 1000.000đ/ tháng. Tại phiên tòa hôm nay chị vẫn giữ nguyên quan điểm là không muốn tách rời 02 con, nếu ai nuôi thì nuôi cả 02 con.

Về tài sản và công nợ: chị V xác định vợ chồng không có gì, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 28/09/2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, bị đơn là anh Lê Văn C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: anh C xác nhận việc vợ chồng kết hôn là do hai bên tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh H vào ngày 12/05/2008. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc, tình cảm bình thường, không xảy ra mâu thuẫn gì. Gần đây cô V tự ý bỏ nhà đi và có đơn xin ly hôn anh. Quan điểm của anh là tình cảm vợ chồng vẫn còn, nên anh không đồng ý ly hôn.

Về con: anh C xác định vợ chồng có 02 (hai) con là cháu Lê Thị V A, sinh ngày 20/12/2008 và cháu Lê Minh Q sinh ngày 16/06/2011, hiện tại các con đang ở với anh C. Quan điểm của anh là không đồng ý ly hôn, nếu phải ly hôn thì anh xin được nuôi cả 02 cháu và không yêu cầu chị V phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và công nợ: anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Bản tự khai ngày 05/11/2021, cháu Lê Minh Q trình bày nguyện vọng được ở với cả Bố và mẹ, nếu không được thì cháu xin được ở với bố. Tại Bản tự khai ngày 06/11/2021, cháu Lê Thị V A trình bày nguyện vọng được ở với cả bố và mẹ.

Tại Biên bản xác minh lập ngày 22/11/2021, đại diện Ủy ban nhân dân xã X cho biết: anh Lê Văn C và chị Lê Thị Thúy V đăng ký kết hôn ngày 12/5/2008 tại UBND xã H, huyện H, tỉnh H. Sau khi kết hôn vợ chồng sinh sống tại thôn L, xã X, huyện T, T. Qúa trình vợ chồng sống đã có 02 con là cháu Lê Thị V A, sinh ngày 20/12/2008 và cháu Lê Minh Q, sinh ngày 16/6/2011. Nguyên nhân mâu thuẫn giữa vợ chồng địa phương không nắm được do gia đình chưa đề nghị UBND xã hòa giải lần nào.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật, bị đơn chưa thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị V, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Lê Thị Thúy V với anh Lê Văn C.

Giao 02 con của chị V và anh C là Lê Thị V A, sinh ngày 20/12/2008 và cháu Lê Minh Q, sinh ngày 16/6/2011 cho anh C trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị V có quyền, nghĩa vụ, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Lê Thị Thúy V phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Lê Thị Thúy V khởi kiện đề nghị giải quyết xin được ly hôn với anh Lê Văn C, cư trú tại: thôn L, xã X, huyện T, tỉnh T; Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Thúy V và anh Lê Văn C tự nguyện kết hôn, đã được Ủy ban nhân dân xã Hương Lâm, huyện H, tỉnh H cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 12/5/2008, nên xác định quan hệ hôn nhân giữa chị V và anh C là hôn nhân hợp pháp. Quá trình sống thời gian đầu tình cảm giữa vợ chồng hạnh phúc, tuy nhiên sau đó thì giữa chị V và bố mẹ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn lặt vặt, bất đồng trong sinh hoạt. anh C không hòa giải được mâu thuẫn này nên tình cảm vợ chồng phai nhạt dần. Qúa trình giải quyết vụ án, chị V một mực đề nghị giải quyết cho chị được ly hôn với anh C; còn anh C có ý kiến không đồng ý ly hôn và mong muốn vợ chồng đoàn tụ, cùng nhau nuôi dạy con chung. Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh C lên làm việc nhưng anh không đến tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, chỉ làm bản tự khai dẫn đến vụ án bị kéo dài.

Tại phiên tòa anh C vẫn muốn được đoàn tụ với chị V, nhưng nếu phải ly hôn thì anh xin được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả 02 con chung, không yêu cầu chị V cấp dưỡng nuôi con chung. Tại phiên tòa chị V nhất quyết xin được ly hôn với anh C, chị cũng đồng ý giao cả 02 con cho anh C trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị không cấp dưỡng nuôi con nhưng vẫn thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Quan hệ hôn nhân giữa chị V và anh C đã lâm vào tình trạng trầm trọng, hôn nhân không còn có thể hàn gắn được, vì vậy chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị V, giải quyết cho chị Lê Thị Thúy V được ly hôn với anh Lê Văn C.

[3] Về con chung: Giao cả 02 con là cháu Lê Thị V A, sinh ngày 20/12/2008 và cháu Lê Minh Q sinh ngày 16/06/2011 cho anh Lê Văn C trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục vì hiện nay 02 cháu đang ở với anh C, được đi học và quan tâm chăm sóc của Bố và ông bà nội.

[4] Về phần tài sản và công nợ: chị Lê Thị Thúy V và anh Lê Văn C không yêu cầu giải quyết về tài sản và công nợ. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: chị Lê Thị Thúy V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

[6] Vê quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lê Thị Thúy V. Chị Lê Thị Thúy V được ly hôn với anh Lê Văn C.

2. Về con chung: Chị Lê Thị Thúy V và anh Lê Văn C có 02 (hai) con là Lê Thị V A, sinh ngày 20/12/2008 và cháu Lê Minh Q sinh ngày 16/06/2011, hiện tại cả 02 con đang ở với anh C.

Giao cả 02 con là Lê Thị V A và cháu Lê Minh Q cho anh Lê Văn C trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Lê Văn C không yêu cầu chị Lê Thị Thúy V cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Lê Thị Thúy V có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con không ai được cản trở.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 280A/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:280A/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Thạnh - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:21/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về