TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 267/2024/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 16 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 116/2024/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 175/2024/QĐ-ST ngày 16/7/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 158/2024/QĐST-HNGĐ ngày 16/8/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Vương Thị T, sinh ngày 14/3/1992 (vắng mặt) Nơi thường trú: thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang (Hiện đang lao động ở nước ngoài).
Chị T ủy quyền cho chị Chu Thị p, sinh năm 1980; Địa chỉ: tổ dân phố K, phường Q, thị xã V, tỉnh Bắc Giang giao nhận tài liệu với Tòa án (văn bản ủy quyền 19/4/2024).
2. Bị đơn: Anh Vũ Văn T1, sinh ngày 10/11/1986 (vắng mặt) Nơi thường trú và địa chỉ cuối cùng của anh T1 ở Việt Nam: thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
Anh T1 hiện đang lao động tại nước ngoài, không rõ địa chỉ.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Bà Đào Thị Q, sinh năm 1963 (vắng mặt) Địa chỉ: thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và bản tự khai ngày 19/4/2024 (có xác nhận của Văn phòng K tại Đ), nguyên đơn chị Vương Thị T trình bày:
Về hôn nhân: Trước khi kết hôn chị, anh T1 được tự do tìm hiểu đi đến hôn nhân. Khi cưới được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục của địa phương và có đăng ký kết hôn ngày 25/6/2012 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn chị về nhà anh T1 làm dâu, vợ chồng chung sống hòa thuận. Do điều kiện kinh tế khó khăn nên năm 2014 chị và anh T1 cùng sang Đài Loan lao động. Thời gian mới sang vợ chồng vẫn hòa thuận nhưng được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nên vợ chồng sống ly thân nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống. Trong thời gian mâu thuẫn chị và anh T1 nhiều lần nói chuyện với mong muốn tiếp tục chung sống để chăm sóc con nhưng do bất đồng quan điểm quá lớn nên không có kết quả. Khi hai bên gia đình biết chuyện có gọi điện khuyên bảo vợ chồng về đoàn tụ nhưng chị xác định không còn tình cảm nên không về đoàn tụ được. Kể từ tháng 02/2015 đến nay chị và anh T1 không ai quan tâm đến nhau, ai có cuộc sống riêng của người đó. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án xử cho chị được ly hôn anh Vũ Văn T1. Qua nói chuyện với con chị được biết anh T1 năm 2022 có về nước sinh sống khoảng 01 năm, đến nay vừa đi lao động tại nước ngoài, anh T1 đi nước nào chị không biết.
Về con chung: Chị và anh T1 có 01 con chung là cháu Vũ Việt T2, sinh ngày 12/02/2013, hiện nay cháu đang sinh sống cùng anh T1 và mẹ đẻ anh T1 là bà Đào Thị Q. Sau khi ly hôn chị đề nghị Tòa án giao cháu T2 cho anh T1 chăm sóc, nuôi dưỡng nhưng tạm giao cho bà Q nuôi dưỡng cho đến khi anh T1 về nước sinh sống.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị đề nghị cấp dưỡng nuôi con chung cho anh T1 với mức cấp dưỡng là 3.000.000 đồng/01 tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Về tài sản chung, công nợ: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ngoài ra chị T trình bày: Do bận công việc nên chị đề nghị được vắng mặt tại các buổi làm việc mà Tòa án triệu tập, vắng mặt tại các phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, vắng mặt tất cả các phiên tòa xét xử do Tòa án mở ra. Chị ủy quyền cho chị Chu Thị P, sinh năm 1980; Địa chỉ: tổ dân phố K, phường Q, thị xã V, tỉnh Bắc Giang giao nhận tài liệu với Tòa án.
Anh Vũ Vãn T1 là bị đơn không có mặt tại địa phương, không gửi văn bản giấy tờ, tài liệu về cho Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đào Thị Q trình bày:
Về hôn nhân: anh T1, chị T được tự do tìm hiểu rồi đi đến hôn nhân, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới, hỏi theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn chị T về nhà bà làm dâu và chung sống hòa thuận. Do điều kiện kinh tế khó khăn nên năm 2014 anh T1, chị T cùng đi lao động tại Đài Loan lao động. Sau khi sang Đài Loan anh, chị vẫn hòa thuận nhung được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Bà có khuyên bảo anh, chị về ở với nhau để chăm sóc con cái nhung không được.
Về con chung: Anh, chị có 01 con chung là cháu Vũ Việt T2, sinh ngày 12/02/2013, hiện cháu T2 đang sinh sống cùng bà. Bà đồng ý chăm sóc, nuôi dưỡng cháu T2 cho anh T1 cho đến khi anh T1 về nước sinh sống. Bà xác định việc chăm sóc, nuôi dưỡng cháu T2 từ khi anh T1, chị T đi lao động nước ngoài cho đến nay là quyền cũng như nghĩa vụ của bà đối với con cháu nên không yêu cầu anh T1, chị T phải trích trả công sức chăm sóc, nuôi dưỡng cháu T2. Bà đồng ý với đề nghị của chị T về việc cấp dưỡng 3.000.000 đồng/01 tháng cho anh T1 để nuôi dưỡng con chung.
Về tài sản, công nợ chung: Anh, chị không có tài sản, công nợ nào chung.
Ngoài ra, trước khi đi lao động tại Đài Loan anh T1 sinh sống cùng gia đình tại thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Sau khi sang Đài Loan anh T1 vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình. Gia đình đã thông báo cho anh T1 biết về việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đang thụ lý giải quyết vụ án “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” giữa chị T và anh T1. Anh T1 cho biết anh đồng ý ly hôn với chị T và đề nghị giao con cho anh chăm sóc, nuôi dưỡng, anh đồng ý mức cấp dưỡng chị T đề xuất.
Do bận công việc nên bà đề nghị được vắng mặt tại các buổi làm việc mà Tòa án triệu tập, vắng mặt tại các phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, vắng mặt tất cả các phiên tòa xét xử do Tòa án mở ra.
Cháu Vũ Việt T2 trình bày: Từ khi bố mẹ đi nước ngoài lao động đến nay cháu sinh sống cùng bà nội. Quá trình chung sống được bà chăm sóc cẩn thận, chu đáo. Nếu bố mẹ ly hôn cháu muốn sinh sống cùng bố và ông, bà nội.
Tại phiên tòa sơ thẩm, chị Vương Thị T, bà Đào Thị Q vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Vũ Văn T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt.
Hội đồng xét xử tóm tắt nội dung vụ án, công bố đơn khởi kiện, bản tự khai của chị Vương Thị T; Biên bản làm việc với bà Đào Thị Q là mẹ của anh Vũ Văn T1 và thông qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang phát biểu về việc tuân theo pháp luật về tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án.
Về việc chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn chị Vương Thị T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đào Thị Q xin xét xử vắng mặt thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn anh Vũ Văn T1 không có địa chỉ cụ thể ở nước ngoài, Tòa án đã niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng đối với bị đơn. Căn cứ các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt chị T, bà Q, anh T1 là đúng theo quy định của pháp luật.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, 104, 107,110, 116, 117, khoản 2 Điều 123 và Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271; Điều 273, khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTBVQH14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vương Thị T; xử:
Về hôn nhân: chị Vương Thị T được ly hôn anh Vũ Văn T1.
Về con chung: Do anh T1, chị T hiện đang lao động tại nước ngoài nên đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Vũ Việt T2 cho anh Vũ Văn T1 là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nhưng tạm giao cháu T2 cho bà Q chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi anh T1 về nước sinh sống.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T phải cấp dưỡng nuôi cháu T2 cùng anh T1 với mức cấp dưỡng là 3.000.000 đồng/01 tháng, cấp dưỡng từ tháng 9/2024 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được công bố tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về quan hệ tranh chấp: Chị Vương Thị T khởi kiện xin ly hôn anh Vũ Văn T1 và yêu cầu giải quyết nuôi con chung. Vì vậy, đây là vụ án “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Tại Công văn số 11595/QLXNC-P3 ngày 05/6/2024 của Cục Q1-Bộ C cung cấp, anh T1 có 03 lượt xuất nhập cảnh, lần gần nhất xuất cảnh ngày 01/11/2023, hiện chưa có thông tin nhập cảnh về nước. Chị T hiện đang lao động tại Đài Loan. Do vụ án có nguyên đơn chị T, bị đơn anh T1 đều đang ở nước ngoài. Mặt khác, anh T1 là bị đơn có nơi thường trú cuối cùng tại tỉnh Bắc Giang. Nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3]. Về việc vắng mặt đương sự:
Đối với nguyên đơn chị Vương Thị T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên bà Đào Thị Q vắng mặt nhưng chị T, bà Q đều xin xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị T, bà Q.
Đối với bị đơn anh Vũ Văn T1: Căn cứ lời khai của nguyên đơn chị Vương Thị T và bà Đào Thị Q (mẹ anh T1) Tòa án xác định được nơi thường trú cuối cùng trước khi xuất cảnh đi nước ngoài của anh T1 ở Việt Nam là: thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Tòa án đã tiến hành giao thông báo thụ lý vụ án cho anh T1 thông qua người thân là bà Q và đề nghị bà Q thông báo cho anh T1 biết việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đang thụ lý giải quyết vụ án “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” giữa chị Vương Thị T và anh Vũ Văn T1. Bà Q cho biết anh T1 vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình, nhưng anh T1 không cung cấp cho gia đình, Tòa án địa chỉ cụ thể của anh T1 tại Đài Loan. Nhận thấy, đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Do đó, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cần tống đạt cho bị đơn và xử vắng mặt bị đơn theo Điều 10 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về Hôn nhân và gia đình và khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[4]. Về hôn nhân: Chị Vương Thị T và anh Vũ Văn T1 kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 25/6/2012 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Do đó, đây là hôn nhân hợp pháp cần được pháp luật bảo vệ. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn, chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, nên chị đề nghị Tòa án xử cho chị được ly hôn anh Vũ Văn T1.
Xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị T, Hội đồng xét xử thấy: Sau khi kết hôn chị T, anh T1 chung sống hòa thuận sau đó cùng sang nước ngoài lao động. Sang nước ngoài lao động đến tháng 02/2015 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nên sống ly thân. Kể từ đó ai có cuộc sống riêng của người đó, không còn quan tâm đến nhau. Bà Q mẹ anh T1 cung cấp anh T1, chị Q có mâu thuẫn và được bà khuyên giải nhưng không thành. Do đó, Hội đồng xét xử xác định anh T1, chị T không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 51, Điều 53 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T, xử cho chị Vương Thị T được ly hôn với anh Vũ Văn T1 là phù hợp với tình trạng hôn nhân thực tế như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.
[5]. Về nuôi con chung: Chị T và anh T1 có 01 con chung là cháu Vũ Việt T2, sinh ngày 12/02/2013. Hiện nay cháu T2 đang sinh sống cùng bà Q (là mẹ anh T1). Sau ly hôn chị T đề nghị giao cháu T2 cho anh T1 chăm sóc, nuôi dưỡng nhưng tạm giao cháu T2 cho bà Q nuôi dưỡng cho đến khi anh T1 về nước sinh sống. Cháu T2 có nguyện vọng ở cùng bố và bà Q, bà Q đồng ý nuôi dưỡng cháu T2 trong thời gian anh T1 ở nước ngoài.
Xét yêu cầu giao con chung cho anh T1 nuôi dưỡng của chị T, Hội đồng xét xử thấy: anh T1, chị T hiện nay đang lao động tại nước ngoài nên không đảm bảo việc nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Tuy nhiên, bà Q mẹ anh T1 đồng ý chăm sóc, nuôi dưỡng cháu T2 thay anh T1 cho đến khi anh T1 về nước sinh sống. Thực tế cháu T2 từ khi chị T, anh T1 đi nước ngoài đều sinh sống cùng bà Q, cháu T2 phát triển ổn định cả về thể chất lẫn tinh thần, cháu có nguyện vọng ở với bố nếu bố mẹ ly hôn. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81, 104 Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận yêu cầu của chị T, giao cháu Vũ Việt T2, sinh ngày 12/02/2013 cho anh T1 trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật sau khi ly hôn, nhung tạm giao cháu T2 cho bà Q nuôi dưỡng cho đến khi anh T1 về nước sinh sống là phù hợp với tình hình thực tế và nguyện vọng của cháu T2 cũng như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
Sau khi ly hôn chị Vương Thị T có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở chị T thực hiện quyền này theo quy định Điều 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.
Trường hợp chị Vương Thị T về nước có nguyện vọng thay đổi người trực tiếp nuôi con chung hoặc vì quyền lợi chính đáng của con chung, các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn bằng vụ án khác theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân gia đình.
[6]. Về mức cấp dưỡng, thời gian cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng nuôi con chung: chị T đề nghị cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh T1 với mức cấp dưỡng là 3.000.000 đồng/01 tháng. Bà Q đồng ý mức cấp dưỡng 3.000.000 đồng/01 tháng.
Xét đề nghị của chị T, Hội đồng xét xử thấy: Theo quy định tại Điều 107 và Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình quy định thì cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên. Do vậy, đề nghị của chị T là có căn cứ.
Về mức cấp dưỡng theo quy định tại Điều 116, Điều 117 của Luật hôn nhân và gia đình và khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số: 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về Hôn nhân và gia đình quy định: “Các đương sự có quyền thỏa thuận về mức cấp dưỡng, nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Mức cấp dưỡng do Tòa quyết định nhưng không được thấp hơn một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng đối với mỗi con”. Như vậy, căn cứ vào quy định trên thì thấy đề nghị của chị T tự nguyện cấp dưỡng với mức cấp dưỡng 3.000.000 đồng/01 tháng là phù hợp, không trái quy định pháp luật nên chấp nhận đề nghị của chị T. Buộc chị Vương Thị T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung là cháu Vũ Việt T2, sinh ngày 12/02/2013 cùng anh Vũ Văn T1 với mức cấp dưỡng là 3.000.000 đồng/01 tháng. Thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 9 năm 2024 đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là có căn cứ và phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.
[7]. Về lãi suất chậm thi hành án: Do vắng mặt chị T, anh T1 nên không thể thỏa thuận được. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định theo quy định pháp luật.
[8]. Về tài sản, công nợ: Do chị T, bà Q không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[9]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Chị Vương Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang.
[10]. Về án phí cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T phải nộp 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định khoản 1 Điều 147 của Bộ Luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.
[11]. Về quyền kháng cáo: Chị Vương Thị T, anh Vũ Văn T1 vắng mặt tại phiên tòa nhưng đang ở nước ngoài nên có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn là 01 tháng, kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ hoặc Bản án được niêm yết theo quy định tại Điều 271 và khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự.
Bà Đào Thị Q vắng mặt tại phiên tòa nhung đang ở trong nước nên có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết theo quy định tại Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 104, Điều 107, Điều 110, Điều 116, Điều 117, khoản 2 Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, khoản 2 Điều 479 Bộ Luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án; xử:
1. Về hôn nhân: Chị Vương Thị T được ly hôn anh Vũ Văn T1.
2. Về nuôi con chung: Giao cháu Vũ Việt T2, sinh ngày 12/02/2013 cho anh Vũ Văn T1 nuôi dưỡng cho đến khi cháu T2 đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nhung tạm giao cháu T2 cho bà Đào Thị Q nuôi dưỡng cho đến khi anh T1 về nước sinh sống sau khi ly hôn, chị Vương Thị T không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở chị T thực hiện quyền này.
3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Buộc chị Vương Thị T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung là cháu Vũ Việt T2, sinh ngày 12/02/2013 cùng anh Vũ Văn T1 với mức cấp dưỡng là 3.000.000đồng (ba triệu đồng)/01 tháng. Thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 9 năm 2024 đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Về án phí: Chị Vương Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0001199 ngày 16/5/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang. Xác nhận chị Vương Thị T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
5. Về án phí cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Vương Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con chung.
6. Về quyền kháng cáo bản án: Anh Vũ Văn T1, chị Vương Thị T có quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Bà Đào Thị Q có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 267/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 267/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/09/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về