Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 263/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 263/2024/HNGĐ-ST NGÀY 05/04/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Bản án 263/2024/HNGĐ-ST ngày 05/04/2024 về ly hôn, tranh chấp nuôi con Ngày 05 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Tp. Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 79/2024/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 02 năm 2024 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2024/QĐXXST- HNGĐ ngày 20 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh D, sinh năm 1997 Trú tại: Tổ 5, Khu phố 6, P. N, Tp. Q, tỉnh B.

- Bị đơn: Anh Lê Xuân N, sinh năm 1996 Trú tại: Tổ 62, Khu phố 7, P. N, Tp. Q, tỉnh B (Chị D và anh N có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 26/01/2024 và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh D trình bày:

- Về hôn nhân: Chị tự nguyện cưới anh Lê Xuân N và có đăng ký kết hôn tại UBND phường N, Tp. Q vào ngày 12/12/2019. Sau khi cưới vợ chồng sống chung tại nhà cha mẹ chị. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc nhưng sau đó hai bên phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh N không lo làm ăn, sống không có trách nhiệm với gia đình, ham chơi cờ bạc gây nợ nần, hai bên hay cãi nhau có lúc đánh nhau rồi dần dần vợ chồng không còn tình cảm. Thời gian qua, chị nhiều lần nhắc nhở, anh N hứa sẽ thay đổi nhưng vẫn chứng nào tật nấy, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Vợ chồng sống ly thân từ 03 năm nay, chị mang con về nhà mẹ ruột ở cho đến nay, hai bên không liên lạc, không còn quan tâm đến nhau, tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu ly hôn anh N. Hiện anh N đang chấp hành án tại Trại giam X trong vụ án hình sự.

- Về con chung: Chị với anh N có 01 con chung là cháu Lê Thiên P, sinh ngày 24/4/2020; sức khỏe cháu bình thường, hiện đang ở với chị. Ly hôn chị yêu cầu được nuôi cháu P và không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa giải quyết.

Bị đơn anh Lê Xuân N: Anh N có đơn xin xét xử vắng mặt.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 17/3/2024 anh N trình bày: Anh thống nhất về thời gian cưới, đăng ký kết hôn như chị Nguyễn Thị Thanh D trình bày. Sau khi cưới vợ chồng sống hạnh phúc bình thường nhưng đến giữa năm 2022 vợ chồng xảy ra mâu thuẫn là do anh vi phạm pháp luật, bị Tòa án xử phạt tù và phải chấp hành án phạt tù tại Trại giam X nên chị D không còn thương anh. Chị D mang còn về nhà mẹ ruột ở cho đến nay, không còn quan tâm, thăm hỏi anh, tình cảm vợ chồng không còn nên anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị D.

Về con chung: Anh với chị D có 01 con chung là cháu Lê Thiên P, sinh ngày 24/4/2020; sức khỏe cháu bình thường, hiện đang ở với chị D. Ly hôn anh đồng ý chị D được nuôi cháu P. Về cấp dưỡng nuôi con anh với chị D tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu giải quyết.

Anh N hiện đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam X.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Q phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và đề xuất hướng giải quyết vụ án:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn và bị đơn thực hiện các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 71 và 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56, Điều 58 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chị Nguyễn Thị Thanh D được ly hôn anh Lê Xuân N.

- Giao chị Nguyễn Thị Thanh D được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trương Lê Thiên P, sinh ngày 24/4/2020.

- Về án phí: Đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng dân sự:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Nguyễn Thị Thanh D có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết về việc ly hôn với anh Lê Xuân N, trú tại: Tổ 62, Khu phố 7, P. N, Tp. Q, tỉnh B. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Tp. Q, tỉnh Bình Định.

[1.2] Về vắng mặt đương sự:

- Đối với nguyên đơn: Trước khi mở phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; xét thấy yêu cầu của nguyên đơn là chính đáng, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn theo quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Đối với bị đơn: Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Lê Xuân N có đơn xin vắng mặt trong không tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; xét xử vụ án. Căn cứ Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh D và anh Lê Xuân N cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND phường N, Tp. Q vào ngày 12/12/2019 trên cơ sở tự nguyện nên quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh N là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Chị D trình bày, sau khi cưới vợ chồng sống hạnh phúc nhưng sau đó hai bên phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh N không lo làm ăn, sống không có trách nhiệm với gia đình, ham chơi cờ bạc gây nợ nần, hai bên hay cãi nhau có lúc đánh nhau rồi dần dần vợ chồng không còn tình cảm. Còn anh N cho rằng vợ chồng mâu thuẫn là do năm 2022 anh vi phạm pháp luật, bị Tòa án xử phạt tù nên chị D không còn thương anh nên chị mang con về nhà mẹ ruột ở cho đến nay, không thăm hỏi, quan tâm gì đến anh nên anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị D. Như vậy, chị D yêu cầu ly hôn anh N là có căn cứ phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng chị D và anh N thống nhất có 01 con chung là cháu Lê Thiên P, sinh ngày 24/4/2020. Hiện tại sức khỏe cháu bình thường, hiện đang ở với chị D từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay. Ly hôn chị D yêu cầu được nuôi cháu P và được anh N đồng ý. Do đó, Hội đồng xét xử giao cháu P cho chị D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là có căn cứ quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị Thanh D và Lê Xuân N không yêu cầu Tòa giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Thanh D và Lê Xuân N không yêu cầu nên Tòa không xem xét giải quyết.

[2.4] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị Thanh D phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[2.5] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có căn cứ và phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 58 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh D được ly hôn anh Lê Xuân N.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao cháu Lê Thiên P, sinh ngày 24/4/2020 cho chị Nguyễn Thị Thanh D được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

2.2. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị Thanh D và anh Lê Xuân N không yêu cầu nên Tòa không giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con khi cần thiết hai bên đều có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Thanh D và anh Lê Xuân N không yêu cầu nên Tòa không giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thanh D phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000491 ngày 01 tháng 02 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự Tp. Q, tỉnh Bình Định (đã nộp xong).

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 263/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:263/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:05/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về