Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 26/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ N, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 26/2024/HNGĐ-ST NGÀY 21/03/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 03 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 700/2023/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 10 năm 2023 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ ra xét xử số 15/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 02 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 26/2024/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Th – Sinh năm 1991 Địa chỉ: Tổ dân phố 5 Đông Hòa, phường Ninh Hải, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa.

Có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Đình V – Sinh năm 1991 Địa chỉ: Tổ dân phố 5 Đông Hòa, phường Ninh Hải, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa.

Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn - bà Nguyễn Thị Th trình bày:

Bà và ông V tự nguyện đăng ký kết hôn năm 2019 tại Ủy ban nhân dân phường Ninh Thủy. Quá trình chung sống hạnh phúc thời gian đầu từ năm 2022 xảy ra nhiều mâu thuẫn do ông V không chăm lo cho gia đình, thường xuyên chơi cờ bạc, cá độ gây nợ nần nên vợ chồng hay kình cãi nhau. Vợ chồng đã không còn chung sống với nhau từ tháng 04/2022. Nay không còn tình cảm nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Nguyễn Đình V.

Về con chung: Bà và ông V có 01 con chung tên Nguyễn Bảo Khánh N, sinh ngày 06/12/2019. Bà yêu cầu nuôi con chung và không yêu cầu ông V cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn – ông Nguyễn Đình V được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt nên không lấy được lời trình bày.

* Tại phiên tòa, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã N trình bày quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: nguyên đơn yêu cầu ly hôn là có cơ sở vì tình cảm không còn, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Về con chung: bà Th và ông V có 01 con chung Nguyễn Bảo Khánh N, sinh ngày 06/12/2019, xét cháu N còn nhỏ, hiện đang được bà Th nuôi dưỡng nên đề nghị chấp nhận yêu cầu giao con chung cho bà Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Về án phí: bà Th phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã nhiều lần triệu tập lấy lời khai, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đồng thời tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông Nguyễn Đình V đều vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[2] Về thẩm quyền giải quyết:

Ông Nguyễn Đình V có hộ khẩu thường trú tại tổ dân phố 5 Đông Hòa, phường Ninh Hải, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Do đó Tòa án nhân dân thị xã N, tỉnh Khánh Hòa có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ tranh chấp: Bà Th yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn và nuôi con chung với ông V nên Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về nội dung vụ án:

[4.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Th và ông Nguyễn Đình V tự nguyện chung sống, kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường Ninh Thủy cấp giấy chứng nhận kết hôn số 94/2019, cấp ngày 23 tháng 9 năm 2019. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Th và ông Nguyễn Đình V là hợp pháp.

Theo lời trình bày của nguyên đơn thì sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hạnh phúc thời gian đầu nhưng về sau nảy sinh nhiều mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do ông V thường xuyên chơi cờ bạc, cá độ gây nợ nần và không chăm lo đời sống gia đình nên từ tháng 4/2022 vợ chồng đã không còn quan tâm, chung sống với nhau nữa là phù hợp với kết quả xác minh tại địa phương. Ông Nguyễn Đình V đã được triệu tập đến tòa để thực hiện quyền, nghĩa vụ nhưng không có mặt là tự từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Xét thấy cuộc sống vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau nhưng cuộc sống chung giữa bà Th và ông V không hạnh phúc, tình trạng hôn nhân lâm vào trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn là có cơ sở theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4.2] Về con chung: Bà Th và ông V có 01 con chung tên Nguyễn Bảo Khánh N, sinh ngày 06/12/2019. Bà Th yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu ông V cấp dưỡng. Xét thấy, cháu N còn nhỏ và đang được bà Th trực tiếp nuôi dưỡng. Ông V đã được triệu tập nhưng không có mặt tại Tòa án để thực hiện quyền yêu cầu về việc nuôi con chung.

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy: việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục sau khi ly hôn là quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và để đảm bảo cho cháu có đủ điều kiện phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội nên cần căn cứ vào các Điều 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình giao con chung Nguyễn Bảo Khánh N, sinh ngày 06/12/2019 cho bà Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp.

Sau khi ly hôn, ông V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết, các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Th không yêu cầu nên không xem xét.

[4.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Th không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã N về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, vị đại diện Viện kiểm sát có quan điểm cho rằng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn và tranh chấp con chung là có cơ sở chấp nhận và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Quan điểm nói trên của vị đại diện Viện kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án phù hợp với nhận định trên của Tòa án nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Th phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết án phí, lệ phí Tòa án số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 264, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Bà Nguyễn Thị Th được ly hôn với ông Nguyễn Đình V.

2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Bảo Khánh N, sinh ngày 06/12/2019 cho bà Nguyễn Thị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Bà Th không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con chung. Ông V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Th phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2022/0001512 ngày 17/10/2023 của Chi cục thi hành án Dân sự thị xã N. Bà Th đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 26/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:26/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về