Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 25/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 25/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 63/2022/TLST-HNGĐ ngày 05-4-2022, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 20/2022/QĐST-HNGĐ ngày 15-8-2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Bùi Thanh T, sinh năm 1988 – Vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn A, xã N, huyện Đắk R, tỉnh Đắk Nông.

Bị đơn: Chị Trần Thị M, sinh năm 1992 – Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn B, xã Đ, huyện Đắk R, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn anh Bùi Thanh T trình bày: Anh và chị Trần Thị M chung sống từ năm 2010, có đăng kết hôn tại UBND xã Nhân C, huyện Đắk R, tỉnh Đắk Nông. Hôn nhân tự nguyện, có tìm hiểu, có tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán. Sau khi chung sống do tính tình không hợp, vợ chồng thường xuyên cãi vã, không có sự tôn trọng nhau, không quan tâm đến gia đình. Anh và chị M đã sống ly thân từ năm 2014 đến nay. Nay anh nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc hôn nhân không thể tiếp tục kéo dài nên xin được ly hôn với chị M.

Về con chung: Anh và chị M có 01 con chung là Bùi Dương Triệu V, sinh ngày 23-11-2011, hiện tại cháu đang sống cùng chị M. Nguyện vọng của anh T là để chị M trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu V đến tuổi trưởng thành và anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh T có quyền đi lại, thăm nom con chung.

Về tài sản chung: Anh T không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung, nợ riêng: Anh T khẳng định là không có nợ chung, nợ riêng.

Bò ñôn chị Trần Thị M vắng mặt tại phiên tòa, vì chị M thường xuyên vắng nhà nên sau khi thụ lý đơn xin ly hôn của anh T, Tòa án đã tiến hành xác minh và niêm yết thông báo thụ lý vụ án; giấy triệu tập; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định hoãn phiên tòa đối với chị M theo đúng quy định của pháp luật, nhưng đến thời điểm này chị M vẫn vắng mặt.

Anh T có đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều tuân thủ đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, đưa vụ án ra xét xử đúng thời hạn.

Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn.

Về quan hệ hôn nhân Anh T được ly hôn với chị M; về con chung: Giao con chung là cháu Bùi Dương Triệu V, sinh ngày 23-11-2011 cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Anh T có quyền đi lại, thăm nom con chung; về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung, nợ chung, nợ riêng: Anh T không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn là anh Bùi Thanh T có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp giải quyết việc ly hôn của anh với chị Trần Thị M. Bị đơn là chị Trần Thị Mcó địa chỉ tại xã Đ, huyện Đắk R, tỉnh Đắk Nông. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp.

[2]. Về sự vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn: Chị Trần Thị M là bị đơn trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn theo đúng quy định pháp luật nhưng chị M vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Nguyên đơn là anh Bùi Thanh T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị Trần Thị M và anh Bùi Thanh T theo quy định của pháp luật.

[3]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Bùi Thanh T và chị Trần Thị M kết hôn với nhau là hoàn toàn tự nguyện, có đi đăng ký kết hôn tại UBND xã Nhân C, huyện Đắk R, tỉnh Đắk Nông năm 2010 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi về sống chung vợ chồng không hạnh phúc và anh chị đã sống ly thân được một thời gian dài. Điều này chứng tỏ mục đích hôn nhân giữa anh T và chị M đã không đạt được, cuộc sống hôn nhân không thể tiếp tục kéo dài. Do đó anh T yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với chị M là có căn cứ, phù hợp theo khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

[4]. Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Bùi Dương Triệu V, sinh ngày 23-11-2011, hiện tại cháu đang sống cùng chị M. Anh T có nguyện vọng để cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu V đến tuổi trưởng thành, anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh T có quyền đi lại, thăm nom con chung.

Để đảm bảo cuộc sống bình thường của cháu V, tránh việc thay đổi nơi cư trú, nơi học tập, chị M cũng là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu V từ khi mới sinh ra cho đến nay, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết giao cháu cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi trưởng thành là phù hợp. Anh T có quyền đi lại, thăm nom con chung.

[5]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh T, chị M không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

[6]. Về tài sản chung, nợ chung, nợ riêng: Anh T không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

[7]. Xét quan điểm và đường lối xử lý của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[8]. Về án phí: Anh Bùi Thanh T là nguyên đơn phải nộp tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 39, khoản 4 điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Thanh T đối với chị Trần Thị M.

1. 1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Bùi Thanh T được ly hôn với chị Trần Thị M.

1. 2. Về con chung: Giao con chung là cháu Bùi Dương Triệu V, sinh ngày 23-11- 2011 cho chị Trần Thị M trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trường thành (đủ 18 tuổi).

Anh Bùi Thanh T được quyền đi lại, thăm nom con chung không ai được ngăn cản.

1.3. Về cấp dưỡng, tài sản chung, nợ chung, nợ riêng: Anh Bùi Thanh T không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

2. Về án phí: Anh Bùi Thanh T phải nộp 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0004743 ngày 29 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đắk R, tỉnh Đắk Nông.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tròn, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

96
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 25/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:25/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk R'Lấp - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về