Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 25/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 25/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 4 năm 2022, tại Hội trường B - Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 121/ 2021/TLST-HNGĐ ngày 09/12/2021, về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/03/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Hoàng Vũ Thanh V, sinh năm 1986.

Địa chỉ: Số 89 P, KP8, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

- Bị đơn: Ông Phạm Hàn Vi Cao P , sinh năm 1977.

Địa chỉ: Số 30/A3, ấp Đ, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.

(Ông P, bà V đều vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/11/2021 và 03/12/2021 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Hoàng Vũ Thanh V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà V và ông P quen biết tự nguyện quen biết tìm hiểu và vợ chồng tiến tới kết hôn có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 24/4/2017. Đây là hôn nhân lần đầu của bà V.

Sau khi cưới xong, từ tháng 05/2017 đến tháng 07/2017 vợ chồng chung sống cùng nhau tại địa chỉ số 30/A3, ấp Đ, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, từ tháng 8/2017 đến năm 2019 hai vợ chồng chuyển về sống tại ấp L, xã Q, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, đến đầu 2019 vợ chồng quay về ở tại địa chỉ ban đầu.

Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ khoảng năm 2019 nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung. Ông P là người đàn ông chỉ biết lo cho công việc, không quan tâm tới vợ con. Thời gian sống chung ông P đã nhiều lần bỏ mặc bà tự mình lo cho con cái trong khi con còn nhỏ phải nằm viện. Bà cảm giác không có được sự cảm thông chia sẻ yêu thương từ chồng. Theo bà V, ông P là người đàn ông bảo thủ và độc đoán, bà đã cố gắng chịu đựng để mong ông Phi sẽ thay đổi tính tình, tuy nhiên ông vẫn khắc phục sửa đổi.

Vào khoảng năm 2019 khi ông P gặp phải tai biến. Thời điểm này một mình bà phải lo cho hai con con nhỏ và cha mẹ bị bệnh nặng nên chỉ sắp xếp được một ngày để lên bệnh viện lo cho ông P sau đó bà về lại Bảo Lộc . Ông P liên tục trách móc bà không quan tâm đến chồng, từ đây thì hai vợ chồng dần xa cách nhau.

Do mâu thuẫn trầm trọng nên từ tháng 07 năm 2019, bà V ở hẳn tại Bảo Lộc (nhà cha mẹ đẻ), ông P có mấy lần đến nhà bà dùng những lời lẽ thiếu văn hóa xúc phạm danh dự bà và gia đình, thậm chí đập phá đồ đạc trong gia đình bà. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng vẫn không khắc phục được. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn bà V yêu cầu ly hôn với ông Phạm Hàn Vi Cao P.

- Về con chung: Vợ chồng chung sống có có 02 con chung là cháu Phạm Hoàng An C, sinh ngày 30/11/2017 và cháu Phạm Hoàng An P, sinh ngày 26/7/2019. Khi ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận bà V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai đề ngày 20/12/2021 và biên bản lấy lời khai ngày 19/01/2022, bị đơn ông Phạm Hàn Vi Cao P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Quá trình quen biết yêu thương nhau và thực hiện đăng ký kết hôn của vợ chồng ông thống nhất như bà V trình bày.

Ông và bà V quen biết tìm hiểu được khoảng 05 tháng thì tiến tới hôn nhân và có đăng ký tại UBND phường L, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 24/4/2017. Đây là hôn nhân lần đầu của ông.

Sau khi kết hôn vợ chồng có nhiều lần chuyển chỗ ở chứ không ở cố định, gần đây nhất vợ chồng ở tại địa chỉ số 30/A3, ấp Đ, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Thời gian đầu sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, mâu thuẫn phát sinh từ khoảng tháng 06 năm 2019, nguyên nhân chủ yếu do ông bận rộn với công việc không có thời gian chăm con nên bà V nghĩ rằng ông không lo cho gia đình con cái, không biết quan tâm đến gia đình, từ những mâu thuẫn nhỏ nhặt nhưng bà V vẫn bỏ về nhà ngoại ở. Có lần do mâu thuẫn ông có nóng tính và chửi mắng bà vài câu, nhưng bà V vẫn lấy đó là cái cớ để bỏ nhà đi. Theo ông mâu thuẫn vợ chồng không có gì lớn vẫn có thể hòa hợp với nhau nhưng bà V không có ý thức hàn gắn tình cảm. Ông thừa nhận ông là người bận rộn với công việc nhưng đối với gia đình ông vẫn luôn hết lòng. Năm 2019 bà V có lấy cớ đưa con về ngoại chăm sóc nhưng sau đó không chịu về lại nhà, ông đã rất nhiều lần muốn vợ chồng hàn gắn nên có gọi điện thoại lên cho ông bà ngoại hòa giải khuyên nhủ giúp, thậm chí ông còn nhờ đến cha sứ khuyên răn nhưng bà V vẫn không thay đổi ý kiến vẫn ở lại trên Bảo Lộc. Khi ông P bị bệnh bà V cũng không về thăm ông một lần vì lấy lý do chăm con. Nay ông cũng không còn muốn níu kéo mối quan hệ này nữa do tình cảm vợ chồng đã không còn, bà V nộp đơn ly hôn đến Tòa án ông đồng ý ly hôn theo như yêu cầu của bà V, tuy nhiên do ông là người theo đạo thiên chúa ly hôn là lỗi đạo nên ông không đồng ý ký vào biên bản, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Vợ chồng chung sống có có 02 con chung là cháu Phạm Hoàng An C, sinh ngày 30/11/2017 và cháu Phạm Hoàng An P, sinh ngày 26/7/2019. Khi ly hôn ông đồng ý giao hai con chung cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng và không cấp dưỡng nuôi con do bà V không yêu cầu. Yêu cầu Tòa án đảm bảo quyền thăm nuôi con của ông.

Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận ông không yêu cầu giải quyết.

* Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai:

- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án được thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, cả nguyên đơn, bị đơn đều không đến tham dự phiên tòa, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt và bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn không có mặt tại phiên tòa nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định pháp luật.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

+ Về quan hệ hôn nhân: Bà Hoàng Vũ Thanh V được ly hôn với ông Phạm Hàn Vi Cao P.

+ Về con chung: Giao cháu Phạm Hoàng An C, sinh ngày 30/11/2017 và cháu Phạm Hoàng An P, sinh ngày 26/7/2019 cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời ông P không phải cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

+ Về án phí: Buộc bà Vân phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định. Kiểm sát viên không kiến nghị khắc phục hay bổ sung gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”. Bị đơn ông Phạm Hàn Vi Cao P hiện đang cư trú tại số 30/A3, ấp Đ, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về việc xét xử vắng mặt các đương sự: Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn, bị đơn đều vắng mặt, nguyên đơn đã có đơn xin xét xử vắng mặt và bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Hoàng Vũ Thanh V và ông Phạm Hàn Vi Cao P tiến tới hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được UBND phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 24/4/2017. Căn cứ các Điều 8, 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, quan hệ hôn nhân của bà V và ông P là hôn nhân hợp pháp.

Về yêu cầu ly hôn của bà V đối với ông P, Hội đồng xét xử nhận thấy: Qua trình bày của các đương sự tại tòa án cho thấy quá trình chung sống giữa vợ chồng bà V và ông P đã để xảy ra mâu thuẫn từ năm 2019, từ đó hai vợ chồng sống ly thân không còn quan tâm, chăm sóc giúp đỡ và chia sẻ với nhau công việc trong gia đình.

Theo nguyên đơn bà V cho rằng tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng đoàn tụ do vợ chồng đã không còn sống chung với nhau trong thời gian dài, không còn sự quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ và chia sẻ với nhau trong cuộc sống gia đình. Ông P thừa nhận trình trạng hôn nhân có xảy ra mâu thuẫn như những lời trình bày của bà V, nay tình cảm vợ chồng không còn níu kéo được nữa nên ông đồng ý ly hôn theo như yêu cầu của bà V, tuy nhiên do là người theo đạo công giao ly hôn là lỗi đạo nên ông đồng ý ký vào biên bản của Tòa án đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Qúa trình giải quyết vụ án Tòa án đã nhiều lần tổ chức hòa giải để giúp ông bà có cơ hội hàn gắn tình cảm nhưng ông P đều vắng mặt, cả ông P và bà V đều không có ý thức hàn gắn hay có biện pháp gì để khắc phục mâu thuẫn vợ chồng đã xảy ra. Điều này cho thấy tình trạng mâu thuẫn vợ chồng của bà V và ông P đã trầm trọng, kéo dài nhưng không có hướng khắc phục, tình cảm vợ chồng không có điều kiện để hàn gắn nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà V là phù hợp với quy định tại Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng ông bà chung sống có 02 con chung là cháu Phạm Hoàng An C, sinh ngày 30/11/2017 và cháu Phạm Hoàng An P, sinh ngày 26/7/2019.

Xét yêu cầu của nguyên đơn khi ly hôn được trực tiếp nuôi cháu Phạm Hoàng An C và cháu Phạm Hoàng An P, nhận thấy: Hiện tại cháu Phạm Hoàng An C và cháu Phạm Hoàng An P đang sống chung với bà V, bà V làm quản lý tại doanh nghiệp, mức lương cơ bản 20 triệu đồng/ tháng, ngoài ra còn có các khoản phụ cấp khác khoảng 5 triệu. Thời gian làm việc khoảng 4 tiếng/ ngày, có thể làm trực tiếp hoặc online. Với mức thu nhập và thời gian làm việc như trên bà V có đủ điều kiện vật chất và tinh thần để tiếp tục chăm lo cho con chung, đồng thời ông P cũng thống nhất giao hai cháu cho bà V khi ly hôn. Do đó, để đảm bảo điều kiện phát triển bình thường, khỏe mạnh về thể chất và tinh thần, không làm xáo trộn cuộc sống hiện tại của con trẻ nên cần tiếp tục giao cháu Phạm Hoàng An C và cháu Phạm Hoàng An P cho bà Vtrực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định pháp luật.

[2.3] Về cấp dưỡng: Bà V không yêu cầu ông P cấp dưỡng nên tạm thời ông Phi không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà V và ông P đều xác định tự thỏa thuận và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí DSST: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất về đường lối giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, 227, 228, 238, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 8, 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH114 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Vũ Thanh V về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, bà Hoàng Vũ Thanh V được ly hôn với ông Phạm Hàn Vi Cao P.

2. Về con chung:

Giao các cháu Phạm Hoàng An C, sinh ngày 30/11/2017 và cháu Phạm Hoàng An P, sinh ngày 26/7/2019 cho bà Hoàng Vũ Thanh V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Tạm miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông Phạm Hàn Vi Cao P do bà Hoàng Vũ Thanh V không yêu cầu.

Ông Phạm Hàn Vi Cao Phi được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về án phí: Bà Hoàng Vũ Thanh V phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được tính trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Vân đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003400 ngày 09/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Bà V đã nộp đủ tiền án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Bà Hoàng Vũ Thanh V và ông Phạm Hàn Vi Cao P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

103
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 25/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:25/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về