TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ N, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 24/2024/HNGĐ-ST NGÀY 21/03/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 21 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 692/2023/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 10 năm 2023 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ ra xét xử số 13/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 02 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2024/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Phan Thị Vô T – Sinh năm 1995 Địa chỉ: Thôn Xuân Hòa 1, xã Ninh Phụng, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa.
Có mặt tại phiên tòa.
- Bị đơn: Ông Lê Tấn T1 – Sinh năm 1990 Địa chỉ: Tổ dân phố 15, phường Ninh Hiệp, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa.
Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn - bà Phan Thị Vô T trình bày:
Bà và ông T1 tự nguyện đăng ký kết hôn năm 2018 tại Ủy ban nhân dân phường Ninh Hiệp. Quá trình chung sống với nhau hạnh phúc thời gian đầu từ năm 2023 xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm và ông T1 có tính ghen tuông vô cớ nên thường xuyên kình cãi nhau và đã không còn chung sống với nhau. Nay không còn tình cảm nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Lê Tấn T1.
Về con chung: Bà và ông T1 có 01 con chung tên Lê Minh Kh, sinh ngày 15/8/2020. Bà yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Bị đơn – ông Lê Tấn T1 được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt nên không lấy được lời trình bày.
* Tại phiên tòa, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã N trình bày quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: nguyên đơn yêu cầu ly hôn là có cơ sở vì tình cảm không còn, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Về con chung: bà T và ông T1 có một con chung tên Lê Minh Kh, sinh ngày 15/8/2020, xét cháu Kh còn nhỏ, hiện đang được bà T nuôi dưỡng nên đề nghị chấp nhận yêu cầu giao con chung cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Về án phí: bà T phải nộp án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã nhiều lần triệu tập lấy lời khai, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đồng thời tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông Lê Tấn T1 đều vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án theo quy định.
[2] Về thẩm quyền giải quyết:
Ông Lê Tấn T1 có hộ khẩu thường trú tại tổ dân phố 15, phường Ninh Hiệp, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Do đó Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ tranh chấp: Bà T yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn và nuôi con chung với ông T1 nên Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.
[4] Về nội dung vụ án:
[4.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị Vô T và ông Lê Tấn T1 tự nguyện đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 158/2018 ngày 23/10/2018 tại Ủy ban nhân dân phường Ninh Hiệp. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà Phan Thị Vô T và ông Lê Tấn T1 là hợp pháp.
Theo lời trình bày của nguyên đơn thì sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hạnh phúc thời gian đầu nhưng từ năm 2023 nảy sinh nhiều mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm và ông T1 có tính ghen tuông vô cớ nên vợ chồng đã không chung sống với nhau nữa. Ông Lê Tấn T1 đã được triệu tập đến tòa để thực hiện quyền, nghĩa vụ nhưng không có mặt là tự từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Xét thấy cuộc sống vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau nhưng cuộc sống chung giữa bà T và ông T1 không hạnh phúc, tình trạng hôn nhân lâm vào trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn là có cơ sở theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[4.2] Về con chung: Bà T và ông T1 có một con chung tên Lê Minh Kh, sinh ngày 15/8/2020. Xét thấy, cháu Kh còn nhỏ và bà T đang trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Ông T1 đã được triệu tập nhưng không có mặt tại Tòa án để thực hiện quyền yêu cầu về việc nuôi con chung.
Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy: việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục sau khi ly hôn là quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và để đảm bảo cho cháu có đủ điều kiện phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội nên căn cứ vào các Điều 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình giao con chung Lê Minh Kh, sinh ngày 15/8/2020 cho bà T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp.
Sau khi ly hôn, ông T1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà T không yêu cầu nên không xem xét.
[4.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
[5] Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã N về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, vị đại diện Viện kiểm sát có quan điểm cho rằng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn và tranh chấp con chung là có cơ sở chấp nhận và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Quan điểm nói trên của vị đại diện Viện kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án phù hợp với nhận định trên của Tòa án nên chấp nhận.
[6] Về án phí: Bà Phan Thị Vô T phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết án phí, lệ phí Tòa án số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 264, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Bà Phan Thị Vô T được ly hôn với ông Lê Tấn T1.
2. Về con chung: Giao con chung tên Lê Minh Kh, sinh ngày 15/8/2020 cho bà Phan Thị Vô T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Bà T không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con chung. Ông T1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.
Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Phan Thị Vô T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về án phí: Bà Phan Thị Vô T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2022/0001507 ngày 17/10/2023 của Chi cục thi hành án Dân sự thị xã N.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 24/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 24/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về