Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 24/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 24/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 29/2022/TLST-HNGĐ ngày 29/03/2022 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2022/QĐXXST – HNGĐ, ngày 20/5/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 18/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 07/6/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Thân Thị H, sinh năm: 1994 Địa chỉ: Tổ 3, khu 8, phường V, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt tại phiên tòa (có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Hồng H, sinh năm: 1993 Địa chỉ: Tổ 3, khu 8, phường V, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt tại phiên tòa (không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 10/03/2022, tại bản tự khai nguyên đơn chị Thân Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh Nguyễn Hồng H kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn hợp pháp tại Ủy ban nhân dân phường V, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh vào ngày 25/12/2013. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống với nhau tại tổ 3, khu 8, phường V, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2014 thì xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân là do hai người tính cách không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, anh H không chịu làm ăn, không có việc làm và sống thiếu trách nhiệm với gia đình. Cuộc sống rất căng thẳng, nặng nề không tìm được tiếng nói chung. Hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2014 đến nay, mỗi người đều có cuộc sống riêng, không còn quan tâm đến nhau nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã quá trầm trọng, không thể hàn gắn được nên chị H đề nghị Tòa án cho chị H được ly hôn với anh Nguyễn Hồng H.

Về con chung: Chị H và anh H có 01 con chung là Nguyễn Hoàng Hải C sinh ngày 20/10/2013. Khi ly hôn chị H muốn được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi), không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị H và anh H không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập, thông báo các văn bản tố tụng hợp lệ theo quy định của pháp luật cho anh Nguyễn Hồng H tuy nhiên anh Nguyễn Hồng H vẫn vắng mặt không có lý do, thể hiện thái độ không hợp tác.

Tại biên bản xác minh ngày 27/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh - Ông Nguyễn Cao S là khu phó khu 8, phường V, thành phố U cung cấp sự việc: Chị H và anh H là công dân cư trú tại tổ 3, khu 8, phường V, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh. Quá trình chung sống vợ chồng chỉ chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn, đến năm 2014 thì xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân là do hai người tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống,anh H không có công việc và không có trách nhiệm với gia đình dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Cuộc sống chung không được hạnh phúc và không tìm được tiếng nói chung. Hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2014 đến nay, không còn quan tâm đến nhau nữa. Tất cả các văn bản tố tụng, giấy triệu tập của Tòa án anh H đã được nhận trực tiếp nhưng không hiểu lý do vì sao anh H không đến Tòa án để làm việc, thể hiện sự không hợp tác. Hiện nay con chung đang ở cùng với ông bà nội, tuy nhiên hàng tháng chị H vẫn gửi tiền cho ông bà nội để chăm sóc, nuôi dưỡng con. Chị H đang có công việc thu nhập ổn định còn anh H làm tự do, thu nhập không ổn định. Nay chị H có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử.

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của các đương sự: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71 BLTTDS. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của bị đơn tại Điều 70, 72 BLTTDS.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của chị H, cho chị H được ly hôn anh Nguyễn Hồng H; Giao con chung Nguyễn Hoàng Hải C sinh ngày 20/10/2013 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng kể từ tháng 6/2022 đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Anh H không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung; về tài sản chung: Không có, nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Việc thụ lý và giải quyết vụ án dân sự tranh chấp về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” giữa các đương sự có nơi cư trú tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn anh Nguyễn Hồng H được Toà án tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng thủ tục tố tụng nhưng anh H vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do; căn cứ điểm b Khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Thân Thị H và anh Nguyễn Hồng H kết hôn vào năm 2013 trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND phường V, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, đây là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật bảo vệ. Quá trình chung sống giữa vợ chồng chị H, anh H không có hạnh phúc thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do hai người tính cách không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng nhiều lần xảy ra cãi vã, hai vợ chồng đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau nữa. Trong quá trình giải quyết, Tòa án đã nhiều lần triệu tập các đương sự để tiến hành hòa giải tạo cơ hội hàn gắn tình cảm vợ chồng cùng nhau gỡ bỏ mâu thuẫn trong cuộc sống nhưng anh H vẫn vắng mặt không lý do cố tình không hợp tác chứng tỏ anh H cũng không tha thiết hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H là phù hợp với thực tế và có căn cứ thheo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị H và anh H có 01 con chung tên là Nguyễn Hoàng Hải C sinh ngày 20/10/2013. Trong quá trình giải quyết, chị H muốn được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Tại biên bản lấy lời khai ngày 5/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, cháu Nguyễn Hoàng Hải C thể hiện quan điểm nếu bố mẹ ly hôn, cháu muốn được ở với mẹ vì mẹ cháu có đủ điều kiện chăm sóc, giáo dục cháu tốt hơn bố cháu. Mặt khác anh H vắng mặt nên không có quan điểm về việc nuôi con chung khi ly hôn, hơn nữa anh H hiện nay công việc tự do, thu nhập không ổn định. Vì vậy để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con, cần giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định tại các Điều 81,82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết về tài sản; anh H vắng mặt, không có quan điểm về tài sản. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về vấn đề tài sản.

[3] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[4] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Khoản 1 Điều 56; Điều 57; 58; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Thân Thị H về việc xin ly hôn với anh Nguyễn Hồng H.

Tuyên xử:

1. Chị Thân Thị H được ly hôn anh Nguyễn Hồng H.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Hoàng Hải C sinh ngày 20/10/2013 cho chị Thân Thị H trực tiếp nuôi dưỡng kể từ tháng 6/2022 cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Anh Nguyễn Hồng H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Nguyễn Hồng H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp anh H lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh H.

3. Về án phí: Chị Thân Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm chị H đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0006798 ngày 29/03/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Chị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt nguyên đơn và bị đơn. Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 24/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:24/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về