Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 24/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHƯỚC LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 24/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 94/2022/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Ngọc H, sinh năm 1990 (có mặt) Địa chỉ: Khu phố 4, phường L, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1983 (vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố 4, phường L, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/5/2022 và trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn Vũ Thị Ngọc H trình bày:

Chị H và anh N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lộc Hiệp, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước vào ngày 22/01/2008. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống với nhau tại khu phố 4, phường L, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước. Trong quá trình chung sống, vợ chồng chị H anh N thường xuyên xảy ra mâu thuẫn dẫn đến cãi vã, cuộc sống hôn nhân không H phúc.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình và quan điểm sống hai bên không hòa hợp, anh N thường xuyên cờ bạc, không lo làm ăn, phụ giúp chị H trong xây dựng kinh tế cũng như công việc trong gia đình và từ tháng 4 năm 2022 đến nay anh N đã ra ở riêng, không thông báo nơi ở mới, không liên lạc hỏi thăm hay có ý hàn gắn, giải quyết mâu thuẫn vợ chồng. Do đó, chị H cảm thấy tình trạng hôn nhân của vợ chồng là không thể cứu vãn được, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với anh N.

Về con chung: Chị H và anh N có hai con chung là Nguyễn Vũ Hoài A – sinh ngày 31/8/2007 và Nguyễn Vũ Ngọc L1 – sinh ngày 30/8/2009. Hiện nay hai cháu đang sống cùng chị H tại khu phố 4, phường L, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước và không biết nơi ở mới, điều kiện sinh sống của anh N nên chị H đề nghị Tòa án giao hai cháu cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng khi giải quyết cho vợ chồng ly hôn.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn Nguyễn Văn N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn với bị đơn và đề nghị giao con chung cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, ngoài ra không có yêu cầu gì khác.

Ý kiến của Viện kiểm sát:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Tuân thủ và chấp hành đúng theo quy định của pháp luật.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn Vũ Thị Ngọc H có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn và giải quyết về con chung với bị đơn Nguyễn Văn N, bị đơn cư trú tại địa phận thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước nên Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh N kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Lộc Hiệp, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước vào ngày 22/01/2008, do đó đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn: Hội đồng xét xử căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn cũng như tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập được, xét thấy trong quá trình chung sống giữa chị H và anh N có xảy ra mâu thuẫn và từ mâu thuẫn đó vợ chồng đã không còn sống chung, không còn sự quan tâm, chăm sóc cho nhau, do đó mục đích hôn nhân giữa chị H và anh N không đạt được. Bản thân chị H, anh N cũng không hề có động thái nào nhằm giải quyết mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng nên Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.

[4] Về con chung: Chị H đề nghị giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng khi giải quyết cho chị và anh N ly hôn. Xét đề nghị này của chị H phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay và phù hợp với nguyện vọng của các cháu nên cần chấp nhận.

Anh N không trực tiếp nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

[5] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228; các điều 147, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1. Về quan hệ hôn nhân:

Chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn, cho chị Vũ Thị Ngọc H ly hôn với anh Nguyễn Văn N.

2. Về con chung:

Giao cháu Nguyễn Vũ Hoài A – sinh ngày 31/8/2007 và cháu Nguyễn Vũ Ngọc L1 – sinh ngày 30/8/2009 cho chị Vũ Thị Ngọc H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Anh Nguyễn Văn N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí:

Chị Vũ Thị Ngọc H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình không có giá ngạch, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp theo biên lai thu tiền số 0008261 ngày 18 tháng 7 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước.

4. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án (30/9/2022). Bị đơn có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 24/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:24/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phước Long - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về