Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 233/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 233/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 251/2022/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 236/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 9 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 213/2022/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1985; Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện T, thành phố H. Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Phạm Thị T, sinh năm 1990; Hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã T, huyện T, thành phố H; Nơi ở hiện nay: Thôn B, xã H, huyện T, thành phố H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/7/2022 và các lời khai tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Nguyễn Văn T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh kết hôn với chị Phạm Thị T từ năm 2009 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 30/11/2009 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố H. Sau khi kết hôn, chị T chuyển khẩu về gia đình anh sinh sống tại thôn Đ, xã T. Quá trình chung sống đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân là do hai bên bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung và không còn tin tưởng nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hai bên tham gia hòa giải nhưng không có kết quả. Chị T về nhà mẹ đẻ ở tại thôn B, xã H từ cuối năm 2018, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay và không còn quan tâm nhau. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, không có khả năng đoàn tụ nên anh đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với chị T.

- Về con chung: Anh và chị T có hai con chung tên là Nguyễn Quốc V, sinh ngày 08/9/2010 và Nguyễn Việt H, sinh ngày 10/7/2014. Anh trực tiếp nuôi dưỡng hai con từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay, hai con khỏe mạnh và được đảm bảo tốt về mọi mặt. Ly hôn, anh đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng hai con; về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Anh và chị T không có tài sản chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị Phạm Thị T là bị đơn trong vụ án, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng cho đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai vẫn không có ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa: Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Văn T và chị Phạm Thị T.

- Về con chung: Giao cho anh Nguyễn Văn T trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung tên là Nguyễn Quốc V, sinh ngày 08/9/2010 và Nguyễn Việt H, sinh ngày 10/7/2014 cho đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn là anh Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai, bị đơn là chị Phạm Thị T vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Nguyễn Văn T và chị Phạm Thị T đã xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 114 đăng ký ngày 30/11/2009 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố H). Căn cứ vào lời khai của đương sự và tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống giữa anh T và chị T có phát sinh mâu thuẫn từ năm 2018, do mâu thuẫn vợ chồng nên anh T và chị T đã sống ly thân từ đó đến nay và không còn quan tâm nhau. Chị Phạm Thị T vẫn có hộ khẩu thường trú tại thôn Đ, xã T, huyện T, thành phố H và hiện đang sinh sống ở nhà mẹ đẻ tại thôn B, xã H, huyện T. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, mở phiên tòa hai lần nhưng chị T đều vắng mặt không có lý do mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, chứng tỏ chị T không tha thiết níu kéo hôn nhân với anh T. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng anh T và chị T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy việc xin ly hôn của anh T với chị T là phù hợp với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát và phù hợp với tình trạng thực tế của vợ chồng, phù hợp với quy định tại các điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận.

[3]. Về con chung: Anh T và chị T có hai con chung tên là Nguyễn Quốc V, sinh ngày 08/9/2010 và Nguyễn Việt H, sinh ngày 10/7/2014. Việc giao con cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con và xem xét nguyện vọng của con chưa thành niên. Xét thấy, lời khai của đương sự và tài liệu điều tra xác minh thể hiện anh T trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay, việc nuôi con đã ổn định và được đảm bảo tốt về mọi mặt; khi ly hôn, anh T đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung, chị T không có ý kiến; mặt khác, hai con đều có nguyện vọng muốn được tiếp tục ở với bố. Vì vậy, giao hai con chung cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện thực tế và phù hợp với quy định tại các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết, chị T không có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Về tài sản chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết, chị T không có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[6]. Về án phí: Anh T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Văn T và chị Phạm Thị T.

2. Về con chung: Giao cho anh Nguyễn Văn T trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung tên là Nguyễn Quốc V, sinh ngày 08/9/2010 và Nguyễn Việt H, sinh ngày 10/7/2014 cho đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Nguyễn Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết, chị Phạm Thị T không có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về tài sản chung: Anh Nguyễn Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết, chị Phạm Thị T không có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

5. Về án phí: Anh Nguyễn Văn T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008075 ngày 13 tháng 7 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố H. Anh Nguyễn Văn T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn là anh Nguyễn Văn T và bị đơn là chị Phạm Thị T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 233/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:233/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về