Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 23/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÙ LAO DUNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 23/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 27 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 12/2022/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kiều L. Sinh năm 1992; nơi cư trú: Ấp N, xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Lê Văn V, sinh năm 1983; cư trú tại: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 15 tháng 02 năm 2022, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kiều L trình bày:

Về hôn nhân: Chị L và anh Lê Văn V tự nguyện tổ chức lễ cưới vào năm 2011, đến ngày 15/8/2012 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc, đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng ý kiến, nên không còn hạnh phúc. Chị L và anh V sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Về hôn nhân: Chị L yêu cầu ly hôn với anh V; về con chung: trong thời gian chung sống chị L và anh V có hai con chung tên Lê Quốc T, sinh ngày 24/3/2013 và Lê Quốc V, sinh ngày 21/6/2015, hiện nay cháu T và cháu V đang sống chung với chị L, chị L yêu cầu nuôi hai con chung là Lê Quốc T và Lê Quốc V cho đến khi thành niên, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung: trong thời gian chung sống chị L và anh V không có tài sản chung và nợ chung, chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Nguyên đơn đã nộp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ: Giấy chứng nhận kết hôn số 63, do Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 15/8/2012, họ và tên chồng Lê Văn V và họ và tên vợ Nguyễn Thị Kiều L (bản chính); Giấy khai sinh số 98/2013 họ và tên Lê Quốc T, sinh ngày 24/3/2013, họ và tên cha Lê Văn V, họ và tên mẹ Nguyễn Thị Kiều L, đăng ký khai sinh tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng vào ngày 12/7/2013 (bản sao có chứng thực); Giấy khai sinh số 91/2015 họ và tên Lê Quốc V, sinh ngày 21/6/2015, họ và tên cha Lê Văn V, họ và tên mẹ Nguyễn Thị Kiều L, đăng ký khai sinh tại Ủy ban nhân dân xã A ngày 07/8/2015 (bản sao có chứng thực); Hợp đồng lao động ngày 16/4/2022 giữa Công ty TNHH T và chị Nguyễn Thị Kiều L, chị L có mức lương cơ bản 4.424.000 đồng (bản sao có chứng thực). Các tài liệu, chứng cứ nguyên đơn đã nộp được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp và chứng thực nên hợp pháp, đây là các tình tiết sự kiện không phải chứng minh phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Bị đơn anh Lê Văn V đã được Tòa án tống đạt hợp lệ: thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập tham gia phiên tòa đến hai lần mà vẫn vắng mặt không có lý do, anh V không gửi văn bản nêu ý kiến đối với các yêu cầu của nguyên đơn cho Tòa án. Tại phiên tòa anh V vắng mặt, nên không có ý kiến trình bày.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án: kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Riêng đối với bị đơn chưa thực hiện đúng nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, về hôn nhân: xử cho chị L ly hôn với anh V; về con chung: giao hai cháu Lê Quốc T và Lê Quốc V cho chị L nuôi dưỡng đến khi thành niên; tài sản chung và nợ chung: chị L không yêu cầu, đề nghị không xem xét; buộc nguyên đơn chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Thẩm quyền giải quyết vụ án: bị đơn cư trú tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng theo khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự

[2] Quan hệ tranh chấp: nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kiều L yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và nuôi dưỡng con chung, nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về sự vắng mặt của đương sự: nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kiều L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn anh Lê Văn V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[4] Xét yêu cầu ly hôn của chị L. Chị L và anh V kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh chị có thời gian chung sống hạnh phúc, đến năm 2017 phát sinh mâu thuẫn do bất đồng ý kiến trong cuộc sống, dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn sâu đậm. Chị L và anh V không chung sống cùng nhau từ năm 2017 cho đến nay. Từ đó đến nay, anh chị không có liên hệ để hàn gắn tình cảm nhằm đoàn tụ xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc. Xét hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên yêu cầu ly hôn của chị L được chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về yêu cầu của chị L được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Quốc T, sinh ngày 24/3/2013 và Lê Quốc V, sinh ngày 21/6/2015 cho đến khi thành niên, không yêu cầu anh V cấp dưỡng. Cháu T và cháu V là con chung của chị L và anh V, từ khi chị L và anh V không chung sống cùng nhau, cháu T và cháu V sống chung với chị L cho đến nay, chị L đã chăm sóc, nuôi dưỡng tốt cháu T và cháu V, anh V không có ý kiến phản đối yêu cầu nuôi con của chị L. Chị L có công việc, thu nhập ổn định đảm bảo điều kiện nuôi dưỡng các con. Cháu T và cháu V đã trên 07 tuổi và đều có nguyện vọng sống chung với mẹ. Từ các phân tích trên, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 và khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Lê Quốc T và Lê Quốc V cho chị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu T và cháu V thành niên. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cho anh V không ai được cản trở. Anh V không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con của chị L. Chị L không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con, nên anh V không có nghĩa vụ cấp dưỡng.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị L không yêu cầu giải quyết tài sản chung và nợ chung, nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Như đã phân tích ở trên đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Án phí dân sự sơ thẩm: Anh V không chịu án phí; chị L phải chịu án phí theo Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 92, Điều 144, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, khoản 1 và khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Tuyên xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Kiều L.

1. Về hôn nhân: cho chị Nguyễn Thị Kiều L và anh Lê Văn V ly hôn.

2. Về con chung: giao cháu Lê Quốc T, sinh ngày 24/3/2013 và cháu Lê Quốc V, sinh ngày 21/6/2015 cho chị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu T và cháu V thành niên. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cho anh V không ai được cản trở. Anh V không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con của chị L. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L không yêu cầu, nên anh V không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị L không yêu cầu, nên không đặt ra xem xét.

4. Án phí dân sự sơ thẩm: Anh V không phải chịu án phí; chị L phải chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí hôn nhân và gia đình, nhưng chị L được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001787 ngày 15 tháng 02 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng, chị L đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: nguyên đơn và bị đơn đều vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 23/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cù Lao Dung - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về