Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 225/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 225/2023/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 264/2023/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 7 năm 2023 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 522/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lý Mộng K, sinh năm 1988 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D (Nguyễn Ngọc D), sinh năm 1981 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 18 tháng 7 năm 2023 cùng các văn bản khác kèm theo, nguyên đơn chị Lý Mộng K trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn D kết hôn, đến ngày 25 tháng 11 năm 2009 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Hải, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Trong quá trình chung sống giữa chị và anh D đã xảy ra nhiều mâu thuẫn do không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống nên thường cự cải với nhau, từ đó chị và anh D đã sống ly thân từ tháng 5 năm 2022 cho đến nay. Do cuộc sống hôn nhân giữa chị và anh D không còn hạnh phúc, mâu thuẫn giữa vợ chồng không thể hàn gắn được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn D. Về con chung, có hai người tên là Lý Trung H (giới tính nam), sinh năm 2004 và Lý Trung K (giới tính nam), sinh ngày 01/01/2006. Đối với Lý Trung H hiện đã thành niên và có khả năng tự lao động nên chị không yêu cầu giải quyết. Riêng Lý Trung K hiện do anh D trực tiếp nuôi dưỡng nên khi ly hôn hôn chị yêu cầu giao Lý Trung K cho anh D tiếp tục nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng nhiều lần nhưng đều vắng mặt không có lý do. Đồng thời, cũng không cung cấp lời khai, tài liệu, chứng cứ liên quan đến yêu cầu khởi kiện của chị Lý Mộng K.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát: Về tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 56, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận cho chị Lý Mộng K ly hôn với anh Nguyễn Văn D. Giao con chung tên là Lý Trung K (giới tính nam), sinh ngày 01/01/2006 cho anh D tiếp tục nuôi dưỡng, chị K không cấp dưỡng nuôi con. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, chị K phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Việc chị Lý Mộng K khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn D là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn anh Nguyễn Văn D cư trú tại ấp C, xã T, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn chị K vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Bị đơn anh D đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị K và anh D là đúng theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân, chị Lý Mộng K và anh Nguyễn Văn D kết hôn và có đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nên hôn nhân giữa chị K và anh D là hôn nhân hợp pháp. Chị K yêu cầu ly hôn với anh D vì chị K cho rằng quá trình chung sống giữa chị K và anh D đã xảy ra nhiều mâu thuẫn do không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, từ đó cuộc sống hôn nhân giữa chị K và anh D không còn hạnh phúc, chị K và anh D đã sống ly thân từ tháng 5 năm 2022 cho đến nay nên chị K yêu cầu được ly hôn với anh D. Quá trình giải quyết vụ án, anh D không có ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của chị K, cũng như không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa chị K với anh D đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chấp nhận cho chị K ly hôn với anh D là có căn cứ đúng theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung, có hai người tên là Lý Trung H (giới tính nam), sinh năm 2004 và Lý Trung K (giới tính nam), sinh ngày 01/01/2006. Đối với Lý Trung H hiện đã thành niên và có khả năng tự lao động nên không đặt ra xem xét. Riêng Lý Trung K chị K yêu cầu giao cho anh D tiếp tục nuôi dưỡng. Anh D không có ý kiến phản đối về yêu cầu giao Lý Trung K cho anh D nuôi dưỡng. Xét thấy, Lý Trung K (giới tính nam), sinh ngày 01/01/2006, hiện do anh D là người đang trực tiếp nuôi dưỡng, do đó nhằm để ổn định về điều kiện môi trường sống và đảm bảo sự phát triển bình thường của con chưa thành niên nên từ đó, giao cho anh D tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Anh D không yêu cầu chị K cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra xem xét.

[4] Chị K xác định tài sản chung và nợ chung không có. Anh D không có ý kiến về những vấn đề trên nên không đặt ra xem xét.

[5] Do đó, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ để chấp nhận.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, chị Lý Mộng K phải chịu theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng các Điều 56, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Lý Mộng K ly hôn với anh Nguyễn Văn D.

2. Về con chung, giao anh Nguyễn Văn D trực tiếp nuôi dưỡng Lý Trung K (giới tính nam), sinh ngày 01/01/2006. Chị Lý Mộng K không cấp dưỡng nuôi con.

Chị Lý Mộng K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, chị Lý Mộng K phải chịu 300.000 đồng nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0019087, ngày 20 tháng 7 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau nên chị Lý Mộng K đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 225/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:225/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:26/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về