Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 22/2024/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 22/2024/HNGĐ-ST NGÀY 05/02/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh N, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 128/2023/TLST - HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2023 về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2023/QĐXXST – HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Đăng Th, sinh năm 1991 Nơi cư trú: Xóm T, xã N, huyện Y, tỉnh N (Có mặt)

Bị đơn: Chị Trần Thị Thu H, sinh năm 1990 Nơi cư trú: Xóm M, xã H, huyện Q, tỉnh N (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và tại biên bản ghi lời khai, nguyên đơn anh Nguyễn Đăng Th trình bày: Anh và chị Trần Thị Thu H kết hôn vào ngày 24/12/2012, đăng ký hết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã N, huyện Y, tỉnh N. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống không hạnh phúc mà thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất hòa, nguyên nhân do hai bên không có tiếng nói chung, bất đồng về quan điểm sống. Hai bên gia đình khuyên nhủ, hòa giải nhưng vợ chồng anh không giải quyết được mâu thuẫn. Sống với nhau khoảng 3 tháng, từ cuối năm 2013 chị H bỏ về bên ngoại sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay hai bên không còn tình cảm, không thể tiếp tục sống chung, do đó anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh và chị H được ly hôn.

Anh Th và chị H không có con chung.

Anh Th và chị H không có tài sản chung nên anh Th không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

Anh Th và chị H không có khoản nợ chung.

Đối với bị đơn chị Trần Thị Thu H, quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ kiện, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng chị Hoài không có mặt để lấy lời khai, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải. Tại phiên toà lần thứ 2, chị H vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Q phát biểu ý kiến:

Qua kiểm sát giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa thấy rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Bị đơn mặc dù được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 4 điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, xử: Về hôn nhân: Cho anh Th được ly hôn chị H; Về con chung: Anh Th, chị H không có con chung; Về tài sản chung: Anh Th không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; Về án phí: Anh Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quan hệ pháp luật được xác định trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chị Trần Thị Thu H cư trú tại xóm M, xã H, huyện Q, tỉnh N nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh N theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Hôn nhân của anh Nguyễn Đăng Th, chị Trần Thị Thu H là hôn nhân hợp pháp, đảm bảo về điều kiện kết hôn và được đăng ký kết hôn đúng quy định. Sau khi kết hôn, anh Th, chị H sống chung không hạnh phúc mà thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và từ cuối năm 2013 đến nay anh Th và chị H đã sống ly thân. Quá trình giải quyết vụ án anh Th một mực xin ly hôn chị H, tại phiên toà anh Thể vẫn cương quyết giữ nguyên yêu cầu đó. Xét thấy hôn nhân của anh Th, chị H lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, do đó chấp nhận yêu cầu của anh Th, cho anh Th được ly hôn chị H.

Về con chung: Anh Nguyễn Đăng Th và chị Trần Thị Thu H không có con chung.

Về tài sản chung: Anh Nguyễn Đăng Th không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Đối với chị Trần Thị Thu H, quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, chị H không có mặt để lấy lời khai, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải. Tại phiên toà, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng chị H vắng mặt không có lý do, do đó căn cứ vào khoản 3 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án vắng mặt chị H.

[4] Về án phí: Anh Nguyễn Đăng Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Đăng Th được ly hôn chị Trần Thị Thu H.

Về án phí: Anh Nguyễn Đăng Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Số tiền trên được khấu trừ trong số tiền tạm ứng án phí 300.000,đ anh Nguyễn Đăng Th đã nộp theo biên lai thu số 0006029 ngày 06 tháng 11 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 22/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:22/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:05/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về