Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 21/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 21/2022/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 5 năm 2022 tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 43/2022/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Dương Thị Trúc L; Cư trú tại: Ấp Phương H, xã Hưng P, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T.

Địa chỉ liên hệ: Ấp Mỹ K, xã Long H, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T (có mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ; Cư trú tại: Số 3, ấp Phương H, xã Hưng P, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 04 tháng 3 năm 2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn chị Dương Thị Trúc L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị Trúc L và anh Nguyễn Văn Đ tổ chức lễ cưới năm 2003, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hưng P, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T ngày 27/8/2014. Trong thời gian chung sống anh chị luôn phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chồng chị L có tính gia trưởng, hay ghen, mỗi lần chồng chị L đi nhậu về đánh đập vợ con và đập phá đồ đạc trong gia đình. Trước đây chị L cũng đã nhiều lần bỏ đi, nhưng sau đó chồng chị L hứa sửa đổi nên chị L mới quay về sống chung. Tuy nhiên, đến cuối năm 2018 mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, chồng chị L vẫn không thay đổi và tiếp tục đánh chị L, không thể chịu đựng nên chị Ly đã bỏ về nhà cha mẹ ruột và không còn sống chung từ đầu năm 2019 đến nay.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân anh chị có 02 con chung tên Nguyễn Văn T, sinh ngày 04/01/2004 và Nguyễn Thị Kim T, sinh ngày 29/11/2013, các con đang sống chung với chị L.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Chị Dương Thị Trúc L yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị Trúc L xin được ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ.

- Về con chung: Đối với con chung Nguyễn Văn T, sinh ngày 04/01/2004 đã thành niên, có khả năng lao động nên chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết. Con chung Nguyễn Thị Kim T, sinh ngày 29/11/2013, chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung Nguyễn Thị Kim T, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị L xác định là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn Đ: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án nhưng bị đơn không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án triệu tập hợp lệ bị đơn 02 lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bị đơn vắng mặt. Vì vậy, Tòa án đã lập biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Biên bản không tiến hành hòa giải được và thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ để đưa vụ án ra xét xử.

Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

- Về tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với nguyên đơn tại phiên tòa hôm nay đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của pháp luật. Riêng bị đơn chưa chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung giải quyết vụ án: Chị L và anh Đ chung sống có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, thời gian đầu anh chị chung sống hạnh phúc, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, từ đầu năm 2019 anh chị không còn sống chung cho đến nay; Về con chung tên Nguyễn Văn T, sinh ngày 04/01/2004 đủ 18 tuổi, có khả năng lao động nên chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết, con chung Nguyễn Thị Kim T, sinh ngày 29/11/2013, đang sống chung với chị L, tiếp tục giao con chung Nguyễn Thị Kim T cho chị Ly trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; Về tài sản chung và nợ chung không có, không yêu cầu giải quyết. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Dương Thị Trúc L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án triệu tập hợp lệ bị đơn đến lần thứ hai để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp giữa các đương sự là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn cư trú tại số 36, ấp Phương Hòa 2, xã Hưng Phú, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, chị Dương Thị Trúc L và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hưng P, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số: 79, ngày 27 tháng 8 năm 2014. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh chị là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận. Căn cứ khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình thì chị L có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Đ.

[4] Xét lý do xin ly hôn của chị L, Hội đồng xét xử thấy rằng: Sau khi kết hôn chị L và anh Đ chung sống với nhau có 02 người con chung. Tuy nhiên, chị L và anh Đ thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo chị L là do anh Đ có tính gia trưởng, mỗi lần anh Đ đi nhậu về đánh đập vợ con và đập phá đồ đạc trong gia đình, từ đó làm cho cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, sau khi xảy ra mâu thuẫn chị L về nhà cha mẹ ruột ở ấp Mỹ K, xã Long H sinh sống, mỗi người sống một nơi, không quan tâm, chăm sóc cho nhau, anh chị không còn chung sống với nhau từ đầu năm 2019 cho đến nay. Tòa án đã triệu tập anh Đ để hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ nhưng anh Đ không có mặt để Tòa án hòa giải đoàn tụ, cho thấy anh Đ không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Như vậy, tình trạng hôn nhân của chị L và anh Đ cũng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L.

[5] Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị L và anh Đ có 02 con chung tên Nguyễn Văn T, sinh ngày 04/01/2004 và Nguyễn Thị Kim T, sinh ngày 29/11/2013, hiện nay đang sống chung với chị L, đối với con chung tên Nguyễn Văn T, sinh ngày 04/01/2004 đủ 18 tuổi, chị L yêu cầu tiếp tục nuôi con chung Nguyễn Thị Kim T, sinh ngày 29/11/2013. Xét thấy, con chung tên Nguyễn Văn T, sinh ngày 04/01/2004 tại thời điểm xét xử cháu đủ 18 tuổi, có khả năng lao động chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Đối với con chung Nguyễn Thị Kim T, sinh ngày 29/11/2013, từ khi anh chị không còn chung sống với nhau thì cháu Tiền sống chung với chị L, chị L nuôi dưỡng, chăm sóc, nên về mặt tình cảm thì cháu T gắn bó và yêu mến chị L nhiều hơn anh Đ, Tòa án có ghi ý kiến cháu T, cháu có nguyện vọng sống chung với chị L, hơn nữa cháu T là giới nữ nên cần sự chăm sóc, nuôi dưỡng của người mẹ, điều kiện chăm sóc của chị L thuận lợi hơn anh Đ, nhằm ổn định cuộc sống cho cháu T về mặt vật chất cũng như tinh thần. Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục giao cháu Nguyễn Thị Kim T, sinh ngày 29/11/2013 cho chị L nuôi dưỡng đến khi cháu T đủ 18 tuổi.

[6] Về nghĩa vụ, quyền của cha mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Căn cứ khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, anh Được có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, mà không ai được cản trở.

[7] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L có khả năng nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

[9] Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị L là người có đơn xin ly hôn, chị L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81; khoản 3 Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Dương Thị Trúc L và anh Nguyễn Văn Đ.

2. Về con chung: Tiếp tục giao con chung Nguyễn Thị Kim T, sinh ngày 29 tháng 11 năm 2013 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu T đủ 18 tuổi, anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu nên không xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Dương Thị Trúc L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003618 ngày 11 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, chị L đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn thì thời hạn kháng cáo nêu trên được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại Ủy ban nhân dân nơi cư trú, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 21/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:21/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Tú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về