Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 21/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 21/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 130/2022/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1989; Đăng ký HKTT: Thôn La G, xã Văn T, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương; Hiện trú tại: Thôn Nhân L, xã Chí M, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương;

Bị đơn: Anh Bùi Văn D, sinh năm 1980; Đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn La G, xã Văn T, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương.

(Chị L , anh D  có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị L trình bày: Chị và anh Bùi Văn D được tư do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn, được UBND xã Văn Tố, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương tổ chức đăng ký và cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 14/10/2011. Sau ngày cưới anh chị sống cùng bố mẹ anh D ở Thôn La G, xã Văn T, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương. Cuộc sống chung vợ chồng anh chị diễn ra bình thường cho đến khoảng giữa năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không thống nhất được với nhau trong mọi việc, anh D sống không tôn trọng chị, coi thường chị và gia đình nhà chị, ngoài ra giữa chị với mẹ và em trai anh D cũng hay xảy ra mâu thuẫn với nhau, dẫn đến hai vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, to tiếng với nhau, những lúc như vậy anh D lại mắng chửi, còn đánh chị và đuổi chị ra khỏi nhà. Do phải đi làm dâu nên chị phải cố gắng chịu đựng, khiến cho cuộc sống của chị trở nên rất áp lực. Đến khoảng cuối năm 2021, do không thể chịu đựng được cuộc sống chung như vậy nữa nên chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở thôn Nhân L, xã Chí M, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương sinh sống. Từ đó đến nay hai vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Nay chị thấy không còn tình cảm gì với anh D nữa nên khởi kiện xin ly hôn với anh D.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng có 02 con chung là Bùi Thị Thanh T, sinh ngày 11/6/2012 và Bùi Khánh N sinh ngày 12/10/2014, hiện cả hai con đều đang sống cùng với anh D. Quan điểm của chị sau khi ly hôn là muốn được nuôi cả hai con, chị tự nguyện không yêu cầu anh D phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Trường hợp anh D cũng có nguyện vọng muốn nuôi con thì đề nghị Tòa án giải quyết cho chị và anh D mỗi người nuôi một con, chị sẽ nuôi con Bùi Khánh N còn anh D sẽ nuôi con Bùi Thị Thanh T cho đến khi con đủ 18 tuổi, không bên nào phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai của anh Bùi Văn D là bị đơn trình bày: Về quá trình kết hôn, thời gian chung sống giữa anh chị đúng như chị L trình bày, còn về mâu thuẫn là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, ngoài ra giữa chị L với mẹ của anh cũng thỉnh thoảng xảy ra mâu thuẫn, dẫn đến việc hai vợ chồng hay xảy ra va chạm, cãi vã, to tiếng với nhau, trong lúc nóng giận anh đã tát, chửi chị L và đuổi chị L ra khỏi nhà. Sau đó, chị L đã thu dọn đồ đạc bỏ về nhà nhà bố mẹ đẻ ở thôn Nhân Lý, xã Chí Minh, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương sinh sống. Từ đó đến nay hai vợ chồng anh chị sống ly thân nhau, không ai quan tâm đến ai. Nay chị L xin ly hôn, anh xác định mình vẫn còn tình cảm với chị L, mong muốn chị L suy nghĩ lại mà quay về đoàn tụ cùng với anh để chăm sóc gia đình và nuôi dạy con cái. Trường hợp chị L vẫn kiên quyết muốn ly hôn thì anh cũng đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung như chị L trình bày là đúng, ly hôn nguyện vọng của anh muốn được nuôi cả 02 con và tự nguyện không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng cho nuôi con.

Về tài sản chung: Không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị L giữ nguyên đề nghị xin được ly hôn, và xin được nuôi con Bùi Khánh N sinh ngày 12/10/2014, anh D nuôi con Bùi Thị Thanh T, sinh ngày 11/6/2012. Anh D xác định nếu chị L cương quyết ly hôn, đề nghị giao cả 02 con cho anh được chăm sóc, nuôi dưỡng và tự nguyện không yêu cầu chị L phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương có quan điểm xác định việc Tòa án thụ lý, giải quyết yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị L là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật. Quá trình xây dựng hồ sơ, thu thập chứng cứ, Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của BLTTDS. Trong thời hạn giải quyết vụ án, các bên đương sự không tự thỏa thuận được các vấn đề cần giải quyết trong vụ án nên Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ đưa vụ án ra xét xử. Đối với nguyên, bị đơn đã chấp hành đúng theo quy định tại các điều 70, 71, 72 của BLTTDS; Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng các điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147 của BLTTDS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí toà án. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị L, đề nghị xử cho chị Nguyễn Thị L ly hôn anh Bùi Văn D; Về con chung: Giao cho chị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con Bùi Khánh N sinh ngày 12/10/2014; giao cho anh D trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con Bùi Thị Thanh T, sinh ngày 11/6/2012 cho đến khi con đủ 18 tuổi; chấp nhận sự tự nguyện của chị L, anh D không yêu cầu phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; Về án phí: Chị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử thấy:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Bùi Văn D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Văn Tố, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương ngày 14/10/2011. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh D là hôn nhân hợp pháp. Về thời gian mâu thuẫn tuy chị L và anh D  trình bày có khác nhau, chị L cho rằng hai vợ chồng anh chị mâu thuẫn bắt đầu từ khoảng giữa năm 2015 còn anh D cho rằng hai vợ chồng anh chị mâu thuẫn bắt đầu từ cuối năm 2021, nhưng cả chị L và anh D đều thừa nhận trong cuộc sống hai vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không thống nhất được với nhau trong cách sống, cách sinh hoạt, dẫn đến hai vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, to tiếng với nhau, trong lúc nóng giận anh D đã mắng chửi, đánh chị L và đuổi chị L ra khỏi nhà, ngoài ra giữa chị L với mẹ anh D cũng xảy ra nhiều mâu thuẫn. Từ khoảng cuối năm 2021 chị L đã về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay, không còn quan tâm đến nhau nữa. Quá trình làm việc với Tòa án và tại phiên tòa, anh D xác định anh vẫn còn tình cảm với chị L, mong muốn chị L suy nghĩ lại quay về đoàn tụ cùng với anh để chăm sóc gia đình, nuôi dạy con chung nhưng nếu chị L kiên quyết muốn ly hôn thì anh cũng nhất trí. Như vậy, HĐXX đã có đủ cơ sở kết luận tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh D đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị Nguyễn Thị L ly hôn anh Bùi Văn D là phù hợp với Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình để hai bên sớm ổn định cuộc sống.

[2] Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị L và anh D có 02 con chung là Bùi Thị Thanh T, sinh ngày 11/6/2012 và Bùi Khánh N sinh ngày 12/10/2014, hiện cả hai con đều đang sống cùng với anh D. Khi ly hôn, chị L có quan điểm muốn được nuôi con Bùi Khánh N còn giao cho anh D nuôi con Bùi Thị Thanh T; anh D có quan điểm muốn được nuôi cả hai con. Cả chị L và anh D đều tự nguyện không yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Hội đồng xét xử thấy rằng: Nguyện vọng được nuôi dưỡng chăm sóc con chung của anh chị đều chính đáng, xuất phát từ tình cảm của cha mẹ dành cho con. Hiện chị L và anh D đều có việc làm, thu nhập ổn định. Chị L hiện đang sống cùng với mẹ ở thôn Nhân Lý, xã Chí Minh, huyện Tứ Kỳ còn anh D hiện cũng đang sống cùng với mẹ ở thôn La Giang, xã Văn Tố, huyện Tứ Kỳ, cả hai đều được gia đình tạo điều kiện về cơ sở vật chất để nuôi con. Mặt khác, cháu Thủy và cháu Ngọc hiện đều đã trên 7 tuổi, cháu Thủy có nguyện vọng xin được ở với anh D, còn cháu Ngọc có nguyện vọng xin được ở với chị L. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cũng như sự phát triển của các con, cần giao cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung Bùi Khánh Ngọc và giao cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung Bùi Thị Thanh T là phù hợp. Chấp nhận sự tự nguyện của chị L và anh D không yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, chị L và anh D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[3] Về tài sản vợ chồng: Chị L và anh D không yêu cầu nên không phải đặt ra giải quyết.

[4] Án phí: Chị L khởi kiện xin ly hôn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về ... án phí và lệ phí Toà án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị L. Xử cho chị Nguyễn Thị L ly hôn anh Bùi Văn D.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con Bùi Khánh N sinh ngày 12/10/2014; giao cho anh Bùi Văn D trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con Bùi Thị Thanh T, sinh ngày 11/6/2012 cho đến khi con đủ 18 tuổi (hiện cả hai con chung đều đang sống cùng với anh D). Chị L và anh D không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Anh chị có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sơ thẩm (Hôn nhân gia đình), được đối trừ vào số tiền chị đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số AA/2020/0004512 ngày 08/6/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.

4. Về quyền kháng cáo: Chị L và anh D có quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án .

Trường hợp bản án, quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 21/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:21/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:15/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về