Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 203/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 203/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử công khai vụ án thụ lý số 195/2022/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 183/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 89/2021/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị L, sinh năm 1985; Nơi ĐKHKTT: Thôn Quế L, xã Thụy H, huyện Kiến Th, thành phố Hải Phòng; hiện sinh sống tại: Phòng 302 dãy nhà 101 khu chung cư H, đường 11 G, quận Mulgeum-eup, thành phố Yangsan-si, tỉnh GyeongsangNto, Hàn Quốc. Vắng mặt (có đề nghị xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Lê Minh D, sinh năm 1983; Nơi cư trú: Thôn Quế L, xã Thụy H, huyện Kiến Th, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai được xác nhận tại Đại sứ quán Việt N tại Hàn Quốc, nguyên đơn chị Hoàng Thị L trình bày:

Chị và anh Lê Minh D tự nguyện kết hôn với nhau thời gian từ năm 2002, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thụy H, huyện Kiến Th, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn, chị và anh D sinh sống tại nhà riêng của vợ chồng tại thôn Quế Lâm, xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do lối sống, phong cách sống không còn phù hợp, vợ chồng nghi ngờ nhau trong các quan hệ, anh D không Tr thực thường hay nói dối chị L. Đến tháng 5/2018, chị L xuất cảnh sang đất nước Hàn Quốc lao động vất vả để gửi tiền về lo kinh tế gia đình nhưng ở Việt N anh D lại tụ tập bạn bè, ham chơi cờ bạc. Trong 03 năm đầu sống tại Hàn Quốc, chị L nhiều lần khuyên bảo anh D phải thay đổi bản thân, lo làm ăn, sống có trách nhiệm hơn để trở thành chỗ dựa vững chắc cho mẹ con chị nhưng anh D không thực hiện, từ đó vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau trên điện thoại. Chị L bị ốm, phải điều trị suốt một thời gian dài nhưng anh D không quan tâm đến chị. Từ tháng 7/2021 đến nay, vợ chồng ít liên lạc, việc ai người đó làm, ai lo bổn phận người đó. Anh D còn chủ động yêu cầu chị làm đơn xin ly hôn, thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên chị L làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Minh D để cả hai nhanh chóng ổn định cuộc sống mới.

Về con chung: Chị và anh Lê Minh D có 02 con chung là cháu Lê Minh Tr, sinh ngày 12/11/2003 và cháu Lê Minh N, sinh ngày 01/12/2014. Cháu Tr đã trưởng thành, đủ khả năng lao động nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết. Đối với cháu N hiện đang sinh sống cùng anh D, anh D làm nghề tự do, có thu nhập và có chỗ ở ổn định. Chị L hiện nay đang sinh sống và làm việc tại Hàn Quốc chưa thể về Việt N nên chị đề nghị Tòa án giao cháu N cho bố là anh D tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con, chị và anh D tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị L và anh D tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn là anh Lê Minh D: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã tống đạt hợp lệ các thông báo, Quyết định của Tòa án nhưng anh Lê Minh D đều vắng mặt không có lý do nên Tòa án không tiến hành lấy được lời khai của anh D. Mặt khác, anh D cũng không có văn bản thể hiện quan điểm đối với yêu cầu khởi kiện của chị L. Tại phiên tòa lần 1 và lần 2 anh D đều vắng mặt không có lý do.

Biên bản xác minh tại địa phương nơi anh D sinh sống thể hiện: Chị L và anh D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, có lời lẽ thiếu tôn trọng nhau, anh D uống rượu, chơi cờ bạc, vợ chồng không bảo ban nhau trong làm ăn nên thường xuyên cãi mắng nhau, có lần anh chị đánh nhau hàng xóm phải sang can ngăn. Nay chị L có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết để anh chị được ly hôn, sớm ổn định cuộc sống mới. Về con chung anh chị có 02 con chung là cháu Lê Minh Tr, hiện đã trưởng thành, có khả năng lao động để tự nuôi mình; cháu Lê Minh N còn nhỏ, hiện sinh sống cùng anh D được anh chăm sóc chu đáo, cháu N có sức khỏe tốt. Hiện nay anh D đang đi làm về xây dựng (bả sơn), có thu nhập ổn định. Anh D và cháu N hiện đang sinh sống tại nhà vợ chồng anh D và chị L xây dựng từ năm 2014. Chị L hiện đang ở nước ngoài, không phù hợp để nuôi cháu N nên đề nghị Tòa án giao cháu N cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng cháu cho đến khi trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của anh chị trên cơ sở quy định của pháp luật. Về tài sản chung của anh chị đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tòa án lấy lời khai của cháu Lê Minh N, có đại diện trường Tiểu học cơ sở xã Thụy Hương và bà ngoại của cháu, thể hiện nguyện vọng của cháu là được ở với bố là anh Lê Minh D nếu Tòa án xét xử cho bố mẹ cháu ly hôn. Vì hiện nay mẹ cháu ở Hàn Quốc không thể về chăm sóc cháu trực tiếp được.

Tòa án lấy lời khai của bà Đặng Thị G là mẹ đẻ của chị Hoàng Thị L, thể hiện mâu thuẫn vợ chồng chị L, anh D đã trầm trọng. Mặc dù đã được gia đình khuyên ngăn nhưng không cải thiện nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn. Về con chung, cháu Tr hiện đã trưởng thành, có khả năng lao động nên không đề nghị Tòa án giải quyết; cháu N hiện còn nhỏ, đang ở cùng anh D, được anh D chăm sóc chu đáo, có chỗ ở ổn định; mặt khác, chị L hiện đang ở nước ngoài nên không có điều kiện chăm con trực tiếp. Đề nghị Tòa án giao cháu Lê Minh N cho anh Lê Minh D được trực tiếp nuôi dưỡng cháu cho đến khi trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đa chấp hành đúng cac quy điṇ h cua Bô luât Tố tung dân sư; nguyên đơn đa thực hiện đung các quyền va nghia vu theo quy định cua Bô luât Tố tung dân sư; bị đơn là anh Lê Minh D vắng mặt tại phiên tòa không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Chị Hoàng Thị L và anh Lê Minh D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hoàng Thị L. Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Lê Minh Tr, sinh ngày 12/11/2003, hiện cháu Tr đã trưởng thành, có khả năng lao động nên không đề nghị Tòa án giải quyết; cháu Lê Minh N, sinh ngày 01/12/2014, hiện cháu N đang ở cùng bố là anh D, được bố chăm sóc chu đáo, anh D có việc làm và chỗ ở ổn định, nguyện vọng của cháu cũng được ở cùng bố. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung là Lê Minh N cho anh Lê Minh D trực tiếp nuôi dưỡng và không xem xét yêu cầu cấp dưỡng. Về tài sản chung: Chị L xác nhận vợ chồng tự thỏa thuận và không đề nghị Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền: Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, nuôi con. Nguyên đơn là chị Hoàng Thị L hiện đang sinh sống tại Hàn Quốc, bị đơn anh Lê Minh D có nơi cư trú tại Hải Phòng, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai, chị Hoàng Thị L vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Anh Lê Minh D vắng mặt mặc dù đã được tống đạt, thông báo hợp lệ. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị L và anh Lê Minh D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng vào ngày 16/9/2002 là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, phát sinh mâu thuẫn, từ tháng 7/2021 đến nay, vợ chồng ly thân, mỗi người một nơi, việc ai người đó làm, ai lo bổn phận người đó, mặc dù đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không thành. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập anh D đến Tòa án để lấy lời khai về việc chị L có đơn xin ly hôn, nhưng anh D không hợp tác, cũng không có văn bản thể hiện quan điểm của mình. Không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và không có mặt tại phiên tòa. Điều này thể hiện anh D không có ý thức hàn gắn, đoàn tụ vợ chồng. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên xử cho chị Hoàng Thị L và anh Lê Minh D được ly hôn là phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về con chung: Chị Hoàng Thị L và anh Lê Minh D có 02 con chung là cháu Lê Minh Tr, sinh ngày 12/11/2003 và cháu Lê Minh N, sinh ngày 01/12/2014. Cháu Tr đã trưởng thành, đủ khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Đối với cháu N hiện đang sinh sống cùng anh D, anh D làm nghề tự do, có thu nhập và có chỗ ở ổn định. Chị L hiện nay đang sinh sống và làm việc tại Hàn Quốc chưa thể về Việt N nên Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu N cho bố đẻ là anh Lê Minh D tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L và anh D xin tự thỏa thuận, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Chị L và anh D tự thỏa thuận, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Hoàng Thị L la nguyên đơn nên phai chiụ an phi ly hôn sơ thâm theo quy điṇ h cua phap luât.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị L và anh Lê Minh D được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2, khoản 4 Điều 207; khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 266; Điều 273; điểm d khoản 1 Điều 469; khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82; Điều 83; Điều 127 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị L.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị L được ly hôn anh Lê Minh D.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Lê Minh N, sinh ngày 01/12/2014 cho anh Lê Minh D trực tiếp nuôi dưỡng. Việc nuôi con của anh D được thực hiện cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L và anh D tự thỏa thuận, không đề nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị L và anh Lê Minh D tự thỏa thuận, không đề nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Hoàng Thị L phai chiụ 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm; nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là  300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai ký hiệu: AA/2021 số 0000780 ngày 26 tháng 7 năm 2022 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng; chị Hoàng Thị L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị L (vắng mặt) tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Anh Lê Minh D (vắng mặt) tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

67
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 203/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:203/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về