Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 200/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 200/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TN, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 215/2022/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2022 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 189/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 184/2022/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Minh TH, sinh năm 1988; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 6, xã NG, huyện TN, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Số 40 AK, phường CB, quận HA, thành phố Hải Phòng; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Đỗ Minh T, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn 6, xã NG, huyện TN, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 20 tháng 3 năm 2022 cùng các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là chị Hoàng Thị Minh TH trình bày:

1. Về hôn nhân:

Chị TH và anh Đỗ Minh T kết hôn với nhau vào năm 2012 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, tự do tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 48 ngày 09 tháng 4 năm 2012 tại Ủy ban nhân dân xã NG, huyện TN, thành phố Hải Phòng. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách hai bên không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, lối sống nên vợ chồng thường xuyên cãi vã lẫn nhau, anh T có hành động, T độ không tôn trọng chị, xúc phạm chị. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hòa giải nhưng không thành. Chị đã từng gửi đơn ly hôn lên Tòa án, nhưng do con chung còn nhỏ nên chị rút đơn để tạo điều kiện vợ chồng hòa giải đoàn tụ, tạo điều kiện cho anh T có cơ hội thay đổi tính cách, quan điểm, T độ. Đến nay vẫn chưa có thay đổi được tình trạng của quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng hiện đã sống ly thân. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, tình trạng hôn nhân không thể kéo dài được nữa nên chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh T theo quy định của pháp luật.

2. Về con chung:

Chị TH trình bày chị và anh T có 02 con chung tên là Đỗ Kim N sinh ngày 21 tháng 01 năm 2013 và Đỗ Minh Q sinh ngày 28 tháng 5 năm 2019. Khi ly hôn, chị TH mong muốn được trực tiếp nuôi con chung Đỗ Kim N và đồng ý để anh T trực tiếp nuôi con chung Đỗ Minh Q, về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị đề nghị để hai bên tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung:

Chị TH trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Đỗ Minh T là bị đơn trong vụ án, trong quá trình giải quyết vụ án có những quan điểm sau:

Anh và chị TH kết hôn với nhau trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã NG, huyện TN, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn, vợ chồng chuyển về thôn 6, xã NG, huyện TN, thành phố Hải Phòng chung sống hòa thuận, hạnh phúc. Đến năm 2019, khi chị TH sinh con thứ hai thì bị bệnh, gia đình đã chữa bệnh cho chị TH khỏi thì chị TH làm đơn xin ly hôn anh, Tòa án đã hòa giải và đã đình chỉ 01 lần. Nhưng chị TH không thay đổi, cải thiện tình hình tính nết mà lại làm đơn xin ly hôn anh, bản thân anh không muốn ly hôn, trường hợp chị TH nhất quyết xin ly hôn thì Tòa án cứ giải quyết, nếu chị TH muốn về anh vẫn chấp nhận và mong muốn chị TH về đoàn tụ.

Về con chung: Có 02 con chung Đỗ Kim N sinh ngày 21 tháng 01 năm 2013 và Đỗ Minh Q sinh ngày 28 tháng 5 năm 2019. Khi ly hôn, anh xin được nuôi cả 02 con chung. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung khi ly hôn: Anh không yêu cầu chị TH phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Biên bản xác minh ngày 06 tháng 7 năm 2022 tại Ủy ban nhân dân xã NG, huyện TN, thành phố Hải Phòng thể hiện: Chị Hoàng Thị Minh TH và Anh Đỗ Minh T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn số 48 ngày 09 tháng 4 năm 2012 tại Ủy ban nhân dân xã NG, huyện TN, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn, vợ chồng chuyển về thôn 6, xã NG, huyện TN, thành phố Hải Phòng chung sống. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hòa thuận đến thời gian gần đây thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp. Nay chị TH xin ly hôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định. Về con chung: Chị TH và anh T có 02 con chung tên là Đỗ Kim N sinh năm 2013 và Đỗ Minh Q sinh năm 2019. Về tài sản chung của vợ chồng: Đề nghị Tòa án giải quyết theo yêu cầu của đương sự.

Biên bản xác minh ngày 07 tháng 9 năm 2022 gia đình chị Hoàng Minh TH thể hiện: Quá trình chung sống chị TH và anh T hòa thuận đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, chị TH cũng đã làm đơn ly hôn tại Tòa án nhưng vì con còn nhỏ nên chị TH lại rút đơn. Sau đó, anh T vẫn không thay đổi vẫn đối xử tệ bạc với chị TH, anh T còn chửi bới đánh đạp chị TH dẫn đến chị TH bị trần cảm một thời gian. Nay vì cuộc sống chung không thể tiếp tục được nữa nên chị TH đã chuyển về nhà mẹ đẻ sinh sống. Về con chung, vợ chồng có hai con chung tên Đỗ Kim N sinh năm 2013 và Đỗ Minh Q sinh năm 2019, khi ly hôn nguyện vong gia đình muốn xin nuôi con tên Đỗ Kim N nhưng vì hiện nay chị TH đang bị trầm cảm nên đề nghị tạm giao hai con cho anh Thải nuôi dưỡng, sau này chị TH khỏi bệnh sẽ xin thay đổi nuôi con sau. Về tài sản chung, vợ chồng có tài sản chung nhưng để lại cho con chung.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng pháp luật. Về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định của pháp luật, xử: Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa: Chị Hoàng Thị Minh TH và anh Đỗ Minh T; về con chung: Giao cho anh Đỗ Minh T trực tiếp nuôi con chung tên là Đỗ Kim  N sinh ngày 21 tháng 01 năm 2013 và Đỗ Minh Q sinh ngày 28 tháng 5 năm 2019 cho đến khi từng con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; về cấp dưỡng nuôi con chung và về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết; nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện TN, thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ Điều 227; 228; 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án;

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa Chị Hoàng Thị Minh TH và anh Đỗ Minh T đã được xác lập là hợp pháp theo Giấy chứng nhận kết hôn số 48 ngày 09 tháng 4 năm 2012 tại Ủy ban nhân dân xã NG, huyện TN, thành phố Hải Phòng. Căn cứ vào lời khai của đương sự và tài liệu điều tra xác minh tại địa phương thể hiện trong quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, lối sống dẫn đến vợ chồng không còn tình cảm. Mâu thuẫn giữa vợ chồng đã được hòa giải nhưng không thành, hiện vợ chồng sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Chị TH xin ly hôn, anh T đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định, điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, khả năng đoàn tụ không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho ly hôn giữa chị TH và anh T là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị TH và anh T có 02 con chung tên là Đỗ Kim N sinh ngày 21 tháng 01 năm 2013 và Đỗ Minh Q sinh ngày 28 tháng 5 năm 2019. Khi ly hôn, chị TH yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung tên Đỗ Kim N, anh T có nguyện vọng được nuôi cả 02 con chung, con chung Đỗ Kim  N có nguyện vọng mong muốn được ở với cả bố và mẹ. Việc giao con chung cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con chung, xét thấy, từ khi ly thân đến nay anh T là người trực tiếp nuôi con, việc nuôi con của anh T đã ổn định, đảm bảo phát triển về mọi mặt của con chung. Hơn nữa, gia đình chị TH đề nghị tạm giao cả hai con chung cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng. Do vậy, cần giao cả hai con chung Đỗ Kim N và Đỗ Minh Q cho anh T trực tiếp nuôi là phù hợp với các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị TH và anh T không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4]. Về tài sản chung: Chị TH, anh T không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.

[5]. Về án phí: Chị TH phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

[6]. Về quyền kháng cáo: Chị TH và anh T có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 227, 228; 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Hoàng Thị Minh TH được ly hôn anh Đỗ Minh T.

2. Về con chung: Giao cho anh Đỗ Minh T trực tiếp nuôi con chung tên là Đỗ Kim N sinh ngày 21 tháng 01 năm 2013 và Đỗ Minh Q sinh ngày 28 tháng 5 năm 2019 cho đến khi từng con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Hoàng Thị Minh TH và anh Đỗ Minh T không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị Minh TH và anh Đỗ Minh T không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Chị Hoàng Thị Minh TH phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008037 ngày 21 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TN, thành phố Hải Phòng. Chị Hoàng Thị Minh TH đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

7. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 200/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:200/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về