Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 19/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 19/2024/HNGĐ-ST NGÀY 21/03/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 22/2024/TLST-HNGĐ ngày 09/01/2024 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2024/QĐST–HNGĐ ngày 26/02/2024 và Quyết định hoãn phiên toà số 13/2024/QĐST–HNGĐ ngày 11/3/2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Bùi Thị Th, sinh năm 1992 Địa chỉ: Tổ 8, ấp C, xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có đơn xin vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Vũ Thanh L, sinh năm 1986 Địa chỉ: Tổ 8, ấp C, xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án nguyên đơn Bà Bùi Thị Th trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà xây dựng gia đình với ông Vũ Thanh L vào năm 2010, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Sông Xoài, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vào ngày 18/02/2011.

Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc đến năm 2015 thì bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp, không tìm được tiếng nói chung. Ông L thường xuyên đi nhậu, không quan tâm con cái.

Mỗi lần vợ chồng mâu thuẫn là ông L lại to tiếng, chửi vợ con, đuổi bà ra khỏi nhà, đập đồ đạc sinh hoạt trong gia đình. Vợ chồng đã ngồi lại nói chuyện với nhau nhiều lần nhưng ông L không thay đổi. Nay bà nhận thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, bà không còn tình cảm với ông L nên bà yêu cầu được ly hôn với ông L.

- Về con chung: Bà và ông L có 03 con chung là cháu Vũ Thị Gia H, sinh ngày 24/12/2011; cháu Vũ Ngọc Phương L, sinh ngày 07/07/2014 và cháu Vũ Gia H1, sinh ngày 15/5/2018. Khi ly hôn, Bà Th có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả 03 con chung đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi), yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con là 1.500.000 đồng/tháng/con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa: Bà Th vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không bổ sung, thay đổi gì.

Quá trình tham gia tố tụng tại Toà án bị đơn ông Vũ Thanh L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông thống nhất với điều kiện kết hôn và thời gian kết hôn như Bà Th đã trình bày.

Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến thời gian gần đây thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do cả hai vợ chồng thường xuyên cãi vã, to tiếng với nhau. Bà Th không chăm lo cho gia đình, con cái, thường xuyên đi chơi không nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa, khi ông góp ý thì Bà Th giận ông. Ngoài ra, thi thoảng ông có đi nhậu buổi tối thì Bà Th không đồng ý. Hiện nay vợ chồng vẫn đang chung sống một nhà, ăn uống, sinh hoạt cùng nhau bình thường.

Nay Bà Th yêu cầu ly hôn thì ông không đồng ý. Ông thấy mâu thuẫn giữa ông và Bà Th là những mâu thuẫn nhỏ, ông chỉ hay to tiếng với Bà Th chứ không đánh đập, bạo lực gia đình. Vợ chồng phát sinh mâu thuẫn là cũng do cả hai chứ không phải do mình ông. Ông mong muốn Bà Th cho ông cơ hội để ông sửa đổi, vợ chồng đoàn tụ cùng nuôi dạy các con.

- Về con chung: Ông và Bà Th có 03 con chung là Vũ Thị Gia H, sinh ngày 24/12/2011; Vũ Ngọc Phương L, sinh ngày 07/7/2014 và Vũ Gia H1, sinh ngày 15/5/2018. Trường hợp Tòa án giải quyết cho Bà Th được ly hôn với ông, ông có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả 03 con chung đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi), không yêu cầu Bà Th cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ phát biểu quan điểm:

Qua nghiên cứu, đánh giá các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa dân sự sơ thẩm về việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, thư ký, Hội thẩm nhân dân và những người tham gia tố tụng thấy:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán từ khi thụ lý vụ án, tiến hành thu thập chứng cứ đã thực hiện đúng theo quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với hội đồng xét xử tại phiên tòa hôm nay đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng, thư ký đã thực hiện đúng nhiệm vụ tại phiên tòa.

- Đối với nguyên đơn đã chấp hành tốt các quy định tại các Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Bà Bùi Thị Th đối với ông Vũ Thanh L cụ thể:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Bùi Thị Th được ly hôn với ông Vũ Thanh L.

Về con chung: Giao 02 cháu Vũ Thị Gia H, sinh ngày 24/12/2011 và cháu Vũ Ngọc Phương L, sinh ngày 07/7/2014 cho ông L trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi), giao cháu Vũ Gia H1, sinh ngày 15/5/2018 cho Bà Th trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi), không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Không xem xét giải quyết.

Về án phí: Bà Th phải đóng án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Căn cứ Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng Dân sự, quan hệ pháp luật vụ án là: Tranh chấp ly hôn và nuôi con; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ.

Bà Bùi Thị Th có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với Bà Th.

Ông Vũ Thanh L đã được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên toà lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông L.

[2]. Về nội dung: Căn cứ vào lời khai của các đương sự, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ do các đương sự cung cấp đã có đủ cơ sở xác định: Bà Bùi Thị Th và ông Vũ Thanh L tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn vào ngày 18/02/2011 tại Uỷ ban nhân dân xã Sông Xoài, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên quan hệ hôn nhân giữa các bên là hợp pháp.

Xét về quan hệ hôn nhân của Bà Th, ông L: Bà Th xác định vợ chồng chung sống nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung, ông L thường xuyên nhậu không quan tâm đến vợ con, vợ chồng thường xuyên cãi vã nên không hạnh phúc. Quá trình tố tụng Bà Th vẫn nhất quyết yêu cầu được ly hôn với ông L.

Ông L xác định vợ chồng chung sống có mâu thuẫn nhưng không trầm trọng đến mức phải ly hôn nên không đồng ý ly hôn. Ông L mong muốn đoàn tụ gia đình với Bà Th vì yêu thương Bà Th và không muốn ảnh hưởng đến cuộc sống của các con. Tuy nhiên ông L không tự hàn gắn tình cảm vợ chồng với Bà Th được. Toà án đã hướng các đương sự hoà giải đoàn tụ nhưng không có kết quả. Bà Th vẫn nhất quyết yêu cầu ly hôn với ông L, điều đó khẳng định Bà Th hoàn toàn không còn tình cảm với ông L.

Như vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định mâu thuẫn giữa vợ chồng Bà Th, ông L đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn của Bà Th đối với ông L.

Về con chung: Bà Th và ông L có 03 con chung là Vũ Thị Gia H, sinh ngày 24/12/2011; Vũ Ngọc Phương L, sinh ngày 07/07/2014 và Vũ Gia H1, sinh ngày 15/5/2018. Khi ly hôn, Bà Th có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả 03 con chung đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi), không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con. Ông L cũng có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng 03 con chung đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi), không yêu cầu Bà Th cấp dưỡng nuôi con Xét nguyện vọng nuôi con của Bà Th, ông L thấy: Cháu H và cháu Linh có nguyện vọng được sống với ông L, hiện nay 02 cháu cũng đang ở cùng ông L. Do đó, để cháu H và cháu Linh có được sự chăm sóc tốt, ổn định về nơi ở, việc học tập và sinh hoạt hàng ngày để phát triển bình thường về thể chất và tinh thần thì cần thiết giao cháu H và cháu Linh cho ông L trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành là phù hợp với quy định của pháp luật.

Cháu H1 hiện đang còn nhỏ nên cần sự quan tâm chăm sóc của Bà Th. Do đó, để cháu H1 có được sự chăm sóc tốt, phát triển bình thường về thể chất và tinh thần thì cần thiết giao cháu H1 cho Bà Th trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Th, ông L không ai yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết vì vậy Tòa án không xem xét.

[3]. Về án phí: Bà Bùi Thị Th phải nộp án phí hôn nhân và gia đình là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Bà Bùi Thị Th đối với ông Vũ Thanh L về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Bùi Thị Th được ly hôn với ông Vũ Thanh L.

- Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Buộc Bà Bùi Thị Th giao cháu Vũ Thị Gia H, sinh ngày 24/12/2011 và cháu Vũ Ngọc Phương L, sinh ngày 07/07/2014 cho ông Vũ Thanh L trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Buộc ông Vũ Thanh L giao cháu cháu Vũ Gia H1, sinh ngày 15/5/2018 cho Bà Bùi Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Vũ Thanh L, Bà Bùi Thị Th được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở. Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con nếu họ lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc thăm con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại Khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

2. Về án phí: Bà Bùi Thị Th phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002955 ngày 05/01/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà Bùi Thị Th đã nộp đủ án phí.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a,7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án”.

3. Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. (Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 19/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:19/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:21/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về