Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 19/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ N, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 19/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 04 tháng 03 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 445/2021/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ ra xét xử số 12/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2022/QĐST- HNGĐ ngày 15/02/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Mỹ H – Sinh năm 1990 Địa chỉ: Thôn Phú Khánh H, xã Diên Th, huyện K, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin vắng.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Trí Q – Sinh năm 1987 Địa chỉ: Thôn P, xã Ninh X, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản không tiến hành hòa giải được và đơn xin vắng mặt, nguyên đơn - bà Phạm Thị Mỹ H trình bày:

Bà và ông Nguyễn Trí Q tự nguyện đăng ký kết hôn năm 2010 tại Ủy ban nhân dân xã Diên Th, huyện K, tỉnh Khánh Hòa. Quá trình chung sống hạnh phúc thời gian đầu nhưng về sau do bất đồng quan điểm sống và ông Q hay rượu chè, về nhà gây sự đánh đập bà nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn kình cãi nhau. Nay tình cảm giữa bà và ông Q không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Trí Q.

Về con chung: Bà và ông Q có một con chung tên Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 05/10/2010. Bà yêu cầu nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn – ông Nguyễn Trí Q được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt nên không lấy được lời trình bày.

* Tại phiên tòa, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã N trình bày quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: nguyên đơn yêu cầu ly hôn là có cơ sở vì tình cảm không còn, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Về con chung: vợ chồng có một con chung tên Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 05/10/2010. Bà yêu cầu nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Xét nguyện vọng của cháu K là được sống chung với mẹ, hiện tại bà H đang nuôi dưỡng con chung nên để đảm bảo quyền lợi cho con chung cần căn cứ vào các Điều 58, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn được nuôi con chung tên Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 05/10/2010. Về cấp dưỡng nuôi con chung, nguyên đơn không yêu cầu nên không xem xét. Về tài sản chung: không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Về án phí: bà H phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã nhiều lần triệu tập lấy lời khai, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đồng thời tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông Nguyễn Trí Q đều vắng mặt. Nguyên đơn bà Phạm Thị Mỹ H có đơn xin vắng mặt phiên tòa hôn nhân và gia đình theo công văn đến ngày 23/2/2022. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[2] Về thẩm quyền giải quyết:

Ông Nguyễn Trí Q có hộ khẩu thường trú tại thôn P, xã Ninh X, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Do đó Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ tranh chấp: Bà H yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn và nuôi con chung với ông Q nên Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. [4] Về nội dung vụ án:

[4.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Mỹ H và ông Nguyễn Trí Q tự nguyện chung sống, kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã D, huyện K, tỉnh Khánh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 31/2010, cấp ngày 24 tháng 11 năm 2010. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà Phạm Thị Mỹ H và ông Nguyễn Trí Q là hợp pháp.

Theo lời trình bày của nguyên đơn thì sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hạnh phúc thời gian đầu nhưng về sau nảy sinh nhiều mâu thuẫn kình cãi nhau. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống và ông Q thường xuyên rượu chè, về nhà gây sự đánh đập bà làm cho tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, mâu thuẫn căng thẳng trầm trọng. Ông Nguyễn Trí Q đã được triệu tập đến tòa để thực hiện quyền, nghĩa vụ nhưng không có mặt là tự từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Xét thấy cuộc sống vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau nhưng cuộc sống chung giữa bà H và ông Q không hạnh phúc, tình trạng hôn nhân lâm vào trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn là có cơ sở theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4.2] Về con chung:

Bà H và ông Q có một con chung tên Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 05/10/2010. Bà H trình bày hiện nay con chung đang được bà trực tiếp nuôi dưỡng nên yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu ông Q cấp dưỡng. Nguyện vọng của cháu K muốn được ở với mẹ. Ông Q đã được triệu tập nhưng không có mặt tại Tòa án để thực hiện quyền yêu cầu về việc nuôi con chung.

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy: việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục sau khi ly hôn là quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và để đảm bảo cho cháu có đủ điều kiện phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội nên cần căn cứ vào các Điều 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giao con chung tên Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 05/10/2010 cho bà H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp.

Sau khi ly hôn, ông Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà H không yêu cầu nên không xem xét. [4.3] Về tài sản chung: Bà H không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã N về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng với quy định của Bộ luật tố tụ ng dân sự. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát có quan điểm cho rằng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn và nuôi con chung là có cơ sở chấp nhận và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Quan điểm nói trên của đại diện Viện kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án phù hợp với nhận định trên của Tòa án nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Bà Phạm Thị Mỹ H phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết án phí, lệ phí Tòa án số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 264, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Bà Phạm Thị Mỹ H được ly hôn với ông Nguyễn Trí Q.

2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 05/10/2010 cho bà Phạm Thị Mỹ H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Bà H không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con chung. Ông Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung: Bà Phạm Thị Mỹ H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Bà Phạm Thị Mỹ H phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2021/0004063 ngày 29/9/2021 của Chi cục thi hành án Dân sự thị xã N. Bà H đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 19/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:19/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về