TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 18/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 29 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 41/2022/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2022 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:
-Nguyên đơn: Chị Lưu Thị H; Sinh năm: 1978 Địa chỉ: Thôn 6, xã Đ, huyện Y, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
-Bị đơn: Anh Nguyễn Văn A; Sinh năm: 1975 Địa chỉ: Thôn 6, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.
Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 10/3/2022, chị Lưu Thị H trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn A kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (Viết tắt là UBND) xã Đ, huyện Y, tỉnh Thanh Hóa ngày 05/01/1999. Sau khi kết hôn, vợ chồng hòa thuận đến năm 2015 thì mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống nên thường xuyên sảy ra cãi cọ, cuộc sống không hạnh phúc. Chị và anh A đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Đến nay, chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể chung sống được nữa nên đề nghị Tòa án nhân dân huyện Thạch Thành giải quyết cho chị được ly hôn anh A.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Văn H, sinh ngày 16/11/1999 và Nguyễn Lưu Q, sinh ngày 25/02/2010. Hiện cháu H đã thành niên, chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Còn cháu Q, chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng và không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.
Về tài sản: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, chị H xin thay đổi yêu cầu về vấn đề nuôi con chung. Chị đề nghị giao cháu Q cho anh A trực tiếp nuôi dưỡng, chị không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh A.
Trong các bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyễn Văn A trình bày:
Về hôn nhân: Anh và chị Lưu Thị H kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Y, tỉnh Thanh Hóa ngày 05/01/1999. Sau khi kết hôn, vợ chồng hòa thuận đến năm 2015 thì mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn nên chị H đi làm ăn xa không về nhà. Đến năm 2015, chị H trở về nhưng do bố mẹ vợ can thiệp vào cuộc sống vợ chồng nên anh, chị đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay. Tuy nhiên, anh xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn. Mặt khác, nếu ly hôn thì con cái sẽ thiếu thốn tình cảm của bố mẹ nên anh mong muốn Tòa án hòa giải để vợ chồng được đoàn tụ.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Văn H, sinh ngày 16/11/1999 và Nguyễn Lưu Q, sinh ngày 25/02/2010. Hiện cháu H đã thành niên, anh A không yêu cầu Tòa án giải quyết. Còn cháu Q, nếu ly hôn thì anh đề nghị được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.
Về tài sản: Anh A không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:
Về tố tụng: Tòa án đã xác định đúng quan hệ pháp luật và tư cách tố tụng của các đương sự trong vụ án. Từ giai đoạn thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án cũng như các thành viên của Hội đồng xét xử (Sau đây viết tắt là HĐXX) và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (Sau đây viết tắt là BLTTDS). Nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS.
Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình. Về hôn nhân: Xử cho chị Lưu Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn A; Về con chung: Giao cháu Nguyễn Lưu Q, sinh ngày 25/02/2010 cho anh A trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh A.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:
[1]. Sau khi nhận đơn khởi kiện của chị Lưu Thị H, Tòa án đã thông báo về quyền lựa chọn hòa giải và lựa chọn hòa giải viên cho chị H và anh A theo khoản 3 Điều 16 Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Chị H và anh A đã có văn bản đồng ý về việc lựa chọn hòa giải theo Luật Hòa giải đối thoại tại Tòa án nên Tòa án đã chuyển vụ việc sang Hòa giải theo quy định tại khoản 4 Điều 16 Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
[2]. Tại phiên hòa giải do Hòa giải viên tiến hành và có sự tham gia của Thẩm phán được phân công phụ trách hòa giải. Chị H và anh A không thống nhất được các vấn đề đang tranh chấp nên Hòa giải viên đã lập biên bản kết thúc việc hòa giải và chuyển hồ sơ vụ việc sang Tòa án để giải quyết theo thủ tục Tố tụng dân sự.
[3]. Trong quá trình giải quyết vụ án, do các bên đương sự có tranh chấp về hôn nhân và con chung nên Tòa án đã tiến hành xác minh để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo khoản 3 Điều 208 BLTTDS và đã thông báo kết quả thu thập tài liệu chứng cứ cho các bên đương sự cũng nhưng VKS được biết.
[4]. Cũng trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự, nhưng anh A không có mặt nên Tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho anh A theo khoản 3 Điều 210 BLTTDS.
[5]. Chị H có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 4 Điều 207 BLTTDS.
[6]. Tại phiên tòa hôm nay, chị H và anh A vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 BLTTDS, Tòa án xét xử vắng mặt chị H và anh A.
[7]. Về hôn nhân: Chị Lưu Thị H và anh Nguyễn Văn A kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Y, tỉnh Thanh Hóa ngày 05/01/1999. Sau khi kết hôn, vợ chồng hòa thuận đến năm 2015 thì mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống nên thường xuyên sảy ra cãi cọ, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Chị và anh A đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Việc này, cả chị H và anh A đều thừa nhận và cũng phù hợp với nội dung mà Tòa án tiến hành xác minh tại địa phương. Mặc dù anh A yêu cầu được đoàn tụ nhưng chị H nhất quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn. HĐXX nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mực trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nghĩ nên áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để xử cho chị Lưu Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn A.
[8]. Về con chung: Vợ chồng có hai con chung. Hiện cháu Nguyễn Văn H đã thành niên, chị H và anh A không yêu cầu Tòa án giải quyết. Còn cháu Q, cả chị H và anh A đều yêu cầu được giao cho anh A trực tiếp nuôi dưỡng. Bản thân cháu Q cũng có nguyện vọng được ở với bố. Do đó, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị H và anh A. Giao cháu Q cho anh A trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh A.
[9]. Về tài sản: Chị H và anh A không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.
[10]. Về án phí: Chị H phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147 BLTTDS; Điều 6; Khoản 1 Điều 24; Điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
1. Về hôn nhân: Xử cho chị Lưu Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn A.
2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Lưu Q, sinh ngày 25/02/2010 cho anh A trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh A.
Chị H có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Lưu Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí DSST đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thành theo biên lai số AA/2021/0007599 ngày 29/3/2022. Chị H đã nộp đủ tiền án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt chị Lưu Thị H và anh Nguyễn Văn A. Chị H và anh A có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 18/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 18/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về