TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN D, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 17/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 29 tháng 8 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận D, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 30/2022/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 334/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Hải Y; nơi ĐKHK: Tổ 06, phường H, quận D, thành phố Hải Phòng, chỗ ở hiện nay: Số 62, tổ dân phố T 1, phường A, quận D, thành phố Hải Phòng; có mặt.
- Bị đơn: Anh Đồng Trung Đ; nơi cư trú: Tổ 06, phường H, quận D, thành phố Hải Phòng; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Vũ Thị Hải Y trình bày:
Chị và anh Đồng Trung Đ tự nguyện kết hôn với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND phường H, quận D, thành phố Hải Phòng vào ngày 28 tháng 6 năm 2013. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống cùng gia đình anh Đ ở phường H, quận D, thành phố Hải Phòng. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được đến năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do hai bên không hợp nhau, vợ chồng thiếu sự quan tâm chia sẻ, cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc. Nay chị Y xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ.
Về con chung: Vợ chồng có 04 con chung là Đồng Thị Minh Ph sinh ngày 23-9-2013, Đồng Thị Minh Ph sinh ngày 23-9-2013, Đồng Khánh M sinh ngày 17- 8-2015 và Đồng Khánh M sinh ngày 14-12-2020. Trong quá trình chuẩn bị xét xử chị Y có nguyện vọng được nuôi con Đồng Khánh M, để anh Đ nuôi 03 con Đồng Thị Minh P, Đồng Thị Minh P, Đồng Khánh M.
Về tài sản chung: Chị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa hôm nay chị giữ nguyên quan điểm xin ly hôn anh Đ và thỏa thuận về tài sản chung vợ chồng; về con chung chị đề nghị được nuôi 02 con nhỏ, để anh Đ nuôi 02 con lớn. Không yêu cầu Tòa án giải quyết về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn anh Đồng Trung Đ trình bày về thời gian kết hôn, quá trình chung sống như chị Y trình bày; về mâu thuẫn anh cho rằng mâu thuẫn giữa vợ chồng anh là do kinh tế, do khác biệt trong cách nuôi dạy con dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Nay chị Y làm đơn xin ly hôn thì anh đồng ý ly hôn. Về con chung: anh chị có 04 con chung như chị Y trình bày, anh có nguyện vọng được nuôi 02 con lớn là Minh P và Minh P, để chị Y nuôi 02 con nhỏ Khánh M và Khánh M, không yêu cầu Tòa án giải quyết về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: anh Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tòa án đã tiến hành xác minh về mâu thuẫn vợ chồng tại địa phương nơi chị Y và anh Đ sinh sống thể hiện vợ chồng có mâu thuẫn và chị Y đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống khoảng từ tháng 5 năm 2022 đến nay.
Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Đ đều vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận D, thành phố Hải Phòng tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án và ý kiến về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Cho chị Y được ly hôn anh Đ. Về con chung: Chấp nhận đề nghị của chị Y, giao con chung Đồng Khánh M và Đồng Khánh M cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Đồng Thị Minh Ph, Đồng Thị Minh Ph cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Về việc cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung chị Y và anh Đ không yêu cầu nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị Vũ Thị Hải Y và anh Đồng Trung Đ kết hôn tự nguyện có đăng ký kết hôn UBND phường H, quận D, thành phố Hải Phòng năm 2013; theo quy định tại Điều 9, Điều 11, Điều 103 của Luật Hôn nhân và Gia đình, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị Y có đơn đề nghị Tòa án nhân dân quận D giải quyết việc ly hôn, anh Đồng Trung Đ hiện đang cư trú tại phường H, quận D, thành phố Hải Phòng nên theo khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận D, thành phố Hải Phòng.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa có đủ cơ sở xác định: Chị Y và anh Đ xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định Luật hôn nhân và gia đình. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn, cuộc sống chung của vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc đến đầu năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn, mâu thuẫn căng thẳng nên chị Y đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Quá trình xác minh thu thập chứng cứ qua lời khai của gia đình, chính quyền địa phương xác định: Chị Y và anh Đ xảy ra mâu thuẫn, hai bên đã hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Hiện tại, chị Y và anh Đ đã sống ly thân, không còn quan tâm tới nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Đ vắng mặt không lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình: "1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. 2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác". Căn cứ vào quy định của pháp luật và thực tế, đủ cơ sở xác định hai bên đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu của chị Y về việc xin ly hôn anh Đ là phù hợp với Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên cần chấp nhận.
[3] Về con chung: Vợ chồng có 04 con chung Đồng Thị Minh Ph sinh ngày 23-9-2013, Đồng Thị Minh Ph sinh ngày 23-9-2013, Đồng Khánh M sinh ngày 17- 8-2015 và Đồng Khánh M sinh ngày 14-12-2020. Chị Y đề nghị giao con chung Khánh M và Khánh M cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Minh Ph và Minh Ph cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy: việc nuôi con chung sau ly hôn là quyền và nghĩa vụ của 2 vợ chồng, chị Y và anh Đ có 04 con chung, chị Y và anh Đ thống nhất để chị Y nuôi 02 con gái nhỏ, anh Đ nuôi 02 con gái lớn để chăm sóc và giáo dục các cháu là phù hợp; mặt khác các cháu Minh Ph và Minh Ph cũng có đơn nguyện vọng được ở với bố. Do đó đề nghị của chị Y và anh Đ là phù hợp với thực tế, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các con, phù hợp quy định tại các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên cần được chấp nhận. Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con, chị Y và anh Đ chưa có yêu cầu nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho đến khi chị Y và anh Đ có yêu cầu.
[4] Về tài sản chung: Chị Y không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Vũ Thị Hải Y là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Về quyền kháng cáo đối với bản án: Chị Vũ Thị Hải Y và anh Đồng Trung Đ được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các điều 28, 35, 39, 147, 207 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, các điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị Hải Y được ly hôn anh Đồng Trung Đ.
2. Về con chung: Giao cho chị Vũ Thị Hải Y trực tiếp nuôi con chung Đồng Khánh M sinh ngày 17-8-2015 và Đồng Khánh M sinh ngày 14-12-2020; giao cho anh Đồng Trung Đ trực tiếp nuôi con chung Đồng Thị Minh Ph sinh ngày 23-9- 2013 và Đồng Thị Minh Ph sinh ngày 23-9-2013 cho đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con, chị Y và anh Đ chưa có yêu cầu nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho đến khi chị Y và anh Đ có yêu cầu.
Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Về tài sản chung: Chị Y, anh Đ không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Chị Vũ Thị Hải Y phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí Tòa án số 0002838 ngày 28-6-2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận D, thành phố Hải Phòng. Chị Vũ Thị Hải Y đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị Hải Y, anh Đồng Trung Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 17/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 17/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Dương Kinh - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về